Chẳng trách Sào, Do lánh Đế Nghiêu.
IV. « Thạch-động thâu vân » (Đá cây Thạch-động)
Quỷ trổ thần xoi nổi một tòa,
Chòm cây khóm đá dấu tiên-gia.
Hang sâu thăm-thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thênh-thênh gió thổi qua.
Trống-lổng bốn bề thâu thế-giới,
Chang-bang một đãy chứa yên-hà.
Chân trời mới biết kho trời đấy,
Cân-đái hèn chi rỡ ỷ-la.
V. « Kim-dự lan đào » (Nước mây Kim-dự)
Kim-dự này là núi chốt then,
Xanh xanh dành trấn cửa Hà-tiên.
Ngăn-ngừa nước dữ không vùng-vẫy,
Che-chở dân lành khỏi ngửa-nghiêng.
Thế cả vững-vàng trên Bắc-hải,
Công cao đồ-sộ giữa Nam-thiên.
Nước an chẳng chút lòng thu động,
Rộng bủa nhân ra tiếp bá xuyên.
VI. « Châu-nham lạc lộ » (Chim cò Châu-nham)
Biết thế đỗ-dừng tính rất khôn
Bay về đầm-lũ mấy mươi muôn.
Đã giăng chữ nhất dài trăng trượng,
Lại bủa trận cờ trắng một non.
Sắc lịch dễ thua chi tuyết-ngọc,
Dặm trường đâu sút nọ kình-côn.
Quen cây chim thể người quen chúa,
Dễ đổi nghìn vàng một tấm son.
VII. « Tiêu-tự thần chung » (Chuông sớm chùa Tiêu)
Rừng thiên xít-xát áng ngoài lào,