- Anh cả đâu? - Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt
sông đêm.
- Dạ bố bảo gì con? - Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà
thuyền chui ra.
- Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi
thứ cho đủ.
Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa.
Ngày mai, cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Đó là đoạn sông rộng và êm chạy
ven chân một dãy núi đá vôi. Ở dưới đáy giữa khúc sông đó là mộ người vợ
bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu
nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời. Vào mùa hè cách
đây mười hai năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ
sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp
thoáng sau những lùm tre gầy nhẳng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ
bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại
cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi.
Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ.
Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu
cứ khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những xóm dân cư hai
bên bờ sông để xin được chôn cất vợ, nhưng không một nơi nào chấp nhận.
Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc
cái chết. Họ sợ bị lây dịch bệnh. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra
trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày
thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật
vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn
lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy
dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con trai
dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào thành một cái hố dưới đáy sông và