cho anh và đi rang cám, đánh gió cho anh. Đến tối anh mê sảng, người
nóng ran. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại
hỏi:
- Thuyền về chưa?
Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ
mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh
đang bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi ôm chặt lấy anh kêu lên khe
khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đẫm
mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng
sông. Anh bế đứa trẻ nâng lên khỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay nhẹ bẫng.
Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào:
- Thuyền đã về chưa?
Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh đã quyết định đi tìm Chinh. Anh
nói với mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số
sách tư liệu cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình
dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không có được một tin tức gì
về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho
những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn
thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. Ở trên mui thuyền có
một cô gái hai tay bị trói vào cọc.
Có người kể lại rằng họ thấy một chiếc thuyền câu nhỏ cứ quay tròn
trôi theo dòng nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng
già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi có người lại nói rằng họ
nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn
như mắt cá. Đứa bé ấy cứ nhìn vào bờ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng...
Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người
dân chài cho đến khi ra đến biển. Biển tít tắp không bờ bến và rền rĩ tiếng
sóng.