lối này.
Cô rút điện thoại và quay số gọi Harvey Mitchum. Giọng anh ta đầy vẻ
mệt mỏi. Cô nói: “Tôi chợt nghĩ ra điều này và muốn tham khảo ý anh,
Harvey à.” Giọng cô có vẻ dè chừng. Đây là hiện trường của anh ấy.
“Gì thế?” Anh ta hỏi.
“Anh nghĩ sao về chuyện đem chiếc rèm cửa sổ về phòng xét nghiệm,
xem có vết máu nào không?”
Anh ta ngừng lại suy nghĩ một giây. “Máu của Beccanti à? Cô nghĩ rằng
kẻ giết người đã trốn qua lối đó sao?”
“Cũng có thể.”
“Vậy có vẻ Loogan không phải kẻ giết người.”
“Không.”
“Ngoài ra, những mảnh vải rèm hướng vào trong nhà,” Mitchum lúc nào
cũng có mắt quan sát tinh tường.
“Có thể kẻ giết người đã trèo ra ngoài,” cô nói, “sau đó gập vải rèm vào
bên trong.”
Vài giây im lặng nữa. “Được rồi, Lizzie. Tôi sẽ cử người đến lấy nó về
đây.”
“Cảm ơn.”
Cô bấm nút tắt điện thoại và quay lại chính giữa căn phòng. Sự chú ý của
cô bị hút về tấm ảnh đóng khung treo trên lò sưởi. Loogan đã kể với cô đó
là món quà của Tom Kristoll. Anh ta tháo khung ảnh ra khi Tom chết để thử
tìm xem có lời nhắn nào từ người bạn mình giấu trong đó không.
Cô kiểng chân lấy nó xuống, lật nó trong tay. Không thấy tấm phong bì
bí mật nào dán phía sau, chẳng có gì hết ngoài tấm bảng trắng.
Điện thoại đổ chuông và cô trả lời lơ đãng, một tay vẫn cầm tấm ảnh.
Một giọng nói quen thuộc vang lên ở đầu đây bên kia: “Xin chào, thám tử.”
Một cách thận trọng, cô dựng tấm ảnh lên mặt đá lò sưởi.
“Anh Loogan.”