tiếng Nhật.
- Nói với cô ta bằng tiếng Hàn ấy! - người điệp viên ngồi bên phải tôi nói
xen vào.
Nhưng khi họ lên tiếng bằng tiếng Cao Ly, tôi giả bộ như không hiểu gì cả;
vì vậy, người nữ điệp viên đôi lúc nói với tôi bằng tiếng Nhật.
Chuyến bay như dài vô tận. Tôi chìm đắm trong suy nghĩ không biết sẽ bị
hành hạ như thế nào khi đến Hán Thành. Dìm trong nước, dùng kìm búa,
hay thanh sắt nung nóng - hình như người Nam Hàn thường sử dụng những
nhục hình như thế. Trên cả chặng đường, tôi run rẩy vì sợ hãi và khi được
đắp lên vai một chiếc chăn, tôi cũng vẫn tiếp tục run như cầy sấy. Giữa
đường, một điệp viên nói:
- Dù cô ta phạm phải tội ác tày trời như thế, nhưng các cậu có thấy cô ấy
giống nàng công chúa ngủ trong rừng không?
Tôi thầm nghĩ “hội này chỉ nói nhảm”, và chỉ về sau tôi mới biết tay điệp
viên muốn ám chỉ nàng Bạch Tuyết. Đối với tôi, “điển tích” ấy không nói
lên điều gì cả, vì tại Bắc Triều Tiên văn học phương Tây bị cấm đoán, và
sách vở dành cho trẻ em chỉ độc một đề tài ca ngợi Kim Nhật Thành. Một
bận, một điệp viên mang trộm được vào trại huấn luyện cuốn “Ngàn lẻ một
đêm” và chúng tôi đọc nó, vừa hồi hộp, vừa sợ hãi.
Để “tiêu” thời gian, và giữ được tinh thần quả cảm, tôi hát thầm nhiều lần
bài “Hành khúc những đội xung kích”:
Các đồng chí, hãy chuẩn bị vũ khí
Tiêu diệt quân xâm lược đế quốc
Tiến lên, hãy dũng cảm chỉ tiến chứ không lùi
Dù phải liều thân, cũng phải cho quân xâm lược nếm mùi!
Hãy lao mình vào trận cuối cùng
Để cuộc chiến ngày mai mang lại thắng lợi
Hãy siết chặt vũ khí trong tay
Dù phải liều thân, cũng phải cho quân xâm lược nếm mùi!
Và tôi cũng nhớ đến gia đình. Tôi hồi tưởng lại cảnh bà ngoại đến thăm tôi,
nhiều tháng trước khi tôi về thăm nhà lần cuối. Đã 15 năm tôi không được
gặp bà và bà khóc òa khi rốt cục hai bà cháu cũng được thấy nhau.