nghiêm trọng, và bác sĩ của ông ta ngạc nhiên là ông ta đã không chết sớm
hơn.
“Trường hợp bà Eagleton và Ernest Clarck cũng thế,” tôi nói, rồi chờ
phản ứng của nàng đối với cái giả thuyết vụn của tôi. Nàng suy nghĩ một
lúc.
“Bà Eagleton thì không hẳn. Em gặp bà cụ ở bệnh viện mấy hôm
trước khi chết, và cụ ấy rất vui mừng vì các xét nghiệm cho thấy bệnh ung
thư của cụ đang có biểu hiện suy giảm. Bác sĩ đã nói cụ ấy còn sống thêm
được khá nhiều năm nữa.”
“À,” tôi nói, như thể đấy chỉ là một phản đối vặt vãnh, “đấy nhất định
là một cuộc trò chuyện riêng tư giữa bà cụ và bác sĩ, không có cách nào
hung thủ lại biết được.”
“Vậy là hắn chọn toàn những người sống lâu hơn đã dự đoán? Ý anh
nói thế à?”
Mặt nàng u ám mất một lúc, và nàng chỉ tay về cái ti vi sau quầy đối
diện phía nàng. Tôi quay lại và nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của một cô
bé tóc quăn trên màn hình, và ở dưới, là một số điện thoại cùng với lời kêu
gọi toàn nước Anh hãy gọi tới đây.
“Chính là cô bé anh đã gặp ở bệnh viện đấy à?” tôi hỏi Lorna. Nàng
gật đầu.
“Nó bây giờ đã nằm trên cùng của danh sách cần cấy ghép khẩn cấp
trên toàn quốc. Nhiều lắm nó chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ để sống
nữa thôi.”
“Còn người cha ra sao rồi?” tôi hỏi. Tôi còn nhớ như in ánh mắt điên
cuồng của ông ta.