giấu nữa. Tôi đã kể cho họ điều tôi biết, là khi tôi rời nhà lúc hai giờ chiều,
bà đang ngủ, bên cạnh bàn chơi Scrabble. Nhưng tôi thấy mình không còn
sức lực để tự bảo vệ nữa. Tôi chính là người mong đợi bà chết đi, còn mong
đợi hơn cái kẻ đã giết bà nhiều, tôi tin chắc thế.”
Có vẻ như cô đã hoàn toàn bị rối loạn tinh thần, hai bàn tay run bần
bật không sao cản nổi. Nhận thấy cái nhìn của tôi, cô bèn khoanh tay lại.
“Dù sao đi nữa,” tôi nói, trao cốc trà cho cô, “tôi không tin Petersen
nghĩ điều gì như thế đâu; có một việc họ biết nhưng không muốn công bố
vội. Giáo sư Seldom không nói gì với cô à?”
Cô lắc đầu, và tôi hối tiếc vì đã lỡ miệng. Nhưng tôi nhìn thấy vẻ thụ
động trong đôi mắt xanh của cô, hệt như giờ đây cô không còn dám hy
vọng gì nữa, và tôi quyết định là sự thiếu kín đáo kiểu Mỹ Latin còn tử tế
hơn là sự chừng mực của người Anh.
“Tôi chỉ nói cho cô được chừng này, vì họ đã yêu cầu chúng tôi giữ bí
mật. Người đã giết bà nội cô có để một mẩu thư nhắn cho Seldom trong hộp
thư của ông. Trong lời nhắn có địa chỉ của cô và thời gian, ba giờ chiều.”
“Ba giờ chiều,” cô nhắc lại chầm chậm. Giống như một gánh nặng
khổng lồ đã được nhấc lên khỏi mình cô. “Lúc ấy thì tôi đã có mặt ở chỗ
tập.” Cô cười yếu ớt, như thể trận chiến dài, khó nhọc đã qua. Cô nhấp một
ngụm trà và nhìn tôi một cách biết ơn qua thành cốc.
“Beth,” tôi mở lời. Bàn tay cô đặt trên lòng nằm thật gần tay tôi, và
tôi phải ngăn mình không nắm lấy nó. “Về chuyện cô vừa nói, nếu tôi có
thể giúp gì được trong việc chuẩn bị tang lễ hay bất cứ việc gì, xin cô cứ
nói. Thế nào thì giáo sư Seldom, hay Michael chắc cũng đã ngỏ ý sẵn rồi...”
“Michael?” Cô hỏi, và cười khô khan. “Anh ta không giúp được gì
nhiều đâu. Tất cả câu chuyện này làm anh ta hoảng sợ lắm.” Và cô nói thêm
ra chiều khinh bỉ, như đang nhắc đến một loài vật hèn nhát nào đó: “Anh ta
đã có gia đình.”