nhớ được từ câu chuyện với thanh tra Petersen. Lorna hỏi thêm vài câu
trước khi kể cho tôi chuyện nàng biết được: thi hài Ernest Clarck không
được đem về nhà xác của cảnh sát, mà thay vào đó, xét nghiệm gia của cảnh
sát đã tiến hành giải phẫu tại bệnh viện, cùng với một bác sĩ ở đó. Nàng đã
thu xếp dụ được vị bác sĩ kể chuyện lại trong bữa ăn trưa. “Có khó lắm
không?” tôi hỏi, với một thoáng ghen tuông. Lorna bật cười. À, anh ta đã
mời nàng ngồi chung bàn mấy lần, và lần này nàng đã nhận lời.
“Cả anh ta lẫn nhà pháp y kia đều mù tịt,” nàng nói. “Không biết ông
Clarck bị tiêm cái gì, nó không để lại dấu vết gì cả - họ tuyệt đối không thấy
gì hết. Anh bác sĩ nói nếu phải là mình, anh ta cũng đã ký giấy chứng tử là
chết vì nguyên do tự nhiên. Có thể có một cách giải thích: loại thuốc này
khá mới, chiết xuất từ thứ nấm Amanita muscaria, và chưa tìm ra loại thuốc
thử nào phát hiện được nó cả. Nó đã được giới thiệu hồi năm ngoái ở một
hội nghị y khoa khép kín tại Boston. Chỗ kỳ lạ - chỗ thú vị nhất - là các nhà
giám định pháp y chưa bao giờ công bố sự tồn tại của loại thuốc này. Xem
ra họ đều đã thề bồi không bao giờ tiết lộ ngay cả tên của nó. Có phải như
vậy cho thấy cảnh sát nên đi tìm hung thủ giữa các giám định pháp y?”
“Hoặc giữa những cô y tá ăn trưa với họ,” tôi nói. “Cả những thư ký
làm biên bản cho hội thảo, các nhà hóa học và sinh học đã nhận diện hóa
chất, và luôn giới cảnh sát nữa. Họ tất nhiên đã được thông báo về sự tồn tại
của loại thuốc này.”
“Ờ, dù sao đi nữa,” Lorna nói, có vẻ tự ái, “nó cũng thu hẹp cuộc tìm
kiếm lại. Đấy không phải một thứ anh có thể tìm thấy trong bất kỳ tủ thuốc
phòng tắm nào.”
“Đúng lắm,” tôi nói, cố xoa dịu. “Mình đi ăn tối nay được không
nào?”
“Không được, tối nay em làm muộn lắm, thế còn tối mai thì sao? Sáu
giờ ba mươi ở quán Đại bàng và Đứa trẻ?”