mà cũng không bắt được quả tang "anh già". Trái lại, bà lại gặp được
bao nhiêu lời chế giễu, bao nhiêu tiếng cười khinh bạc của bọn cô
đầu là khác.
Gậm một mối căm hờn, bà phán T. nhất quyết phải bắt cho
được chồng một đêm nào đó ở giữa làng sênh phách đàn ca. Bà bèn
thuê nặc nô đi làm "đội quân thứ năm" và cũng đã chịu bỏ tiền ra
lắm nhưng trong nửa tháng trời, vẫn không có "tin tức" gì lạ cả, bà
phát ốm và đành phải nằm nhà uống thuốc bổ của ông lang Bầu
Hàng Guốc. Thấy vợ ốm phải nằm như thế, ông phán T. của
chúng ta đã mở cờ trong bụng, thôi thì đêm nay phải đi họp hội đồng
lại đêm mai phải đi làm đêm "bởi vì độ này nhà nước bận việc luôn".
Ông "hả" lắm và ông làm ra dáng vội lắm, cứ bảy tám giờ tối thì
hớt hơ hớt hải thắt cái ca-vát "hộp" đi ra chỗ chờ xe điện, ở đó đã có
"chư hiền" ngồi đợi để cùng đưa nhau đến sở Khâm Thiên hay Vạn
Thái làm đêm thực, làm một chầu "rất bớp"! Một chầu yên ổn, ba
bốn chầu yên ổn. Ông phán T. của chúng ta đã tưởng rằng cứ yên
ổ
n như thế mà đi làm đêm mãi, – hay ít ra cũng được như vậy cho
đến khi bà khỏi bệnh, – thì một đêm kia một câu chuyện như sét
đánh xảy ra. Người quân tử của chúng ta, ông phán T., không phòng
thân đã bị một sự lầm lỗi lớn. Thì ra cái bệnh của bà phán chỉ là một
thứ bệnh tưởng mà thôi, một kế để lừa chồng cũng như ngày xưa
Khổng Minh bỏ thành lừa Tư Mã Ý.
Tư Mã Ý thấy có một tên quân quét rác ở trên mặt thành, sợ quá,
quay ngựa chạy. Vợ ông phán T. thì để cho chồng mắc mưu rồi
một đêm kia bà chạy theo sau ông dò và một khi đã biết đích rằng
chư hiền họp nhau ở nhà chờ xe điện Bờ Hồ rồi, các ngài có biết
bà làm gì không? Chắc không ai tưởng tượng được.
Bà vào ngay ngõ Gia Ngư trút phăng bộ quần áo lụa ra bọc vào
một bọc và đem gửi một nhà quen gần đấy.