tốt, vì thế khi tình hình trở nên khó khăn, ban quản trị đã họp và đề ngị phải
có một người mạnh về tài chính lên nắm quyền để vực bệnh viện dậy. Sau
khi được bầu, ông ta liền cho những người trong bộ máy cũ về vườn cả và
đưa đội quân lâu la của ông ta tới.
Một đám đông khác đang lố nhố cạnh các cánh cửa. Có rất nhiều tiếng chân
bước rộn rã, những cái đầu mệt mỏi thò ra, những cú bấm vào nút thang
máy bừa bãi. Hai trong số các thang máy đang bị mắc ở đâu đó trên tầng
trên. Trên cánh cửa thang máy thứ ba có tấm biển ghi chữ "Thang hỏng".
- Nào tiến lên - Kornblatt hô, tay chỉ ra cầu thang bộ và rảo bước như chạy
tới đó. Tất cả bọn họ đều phi nhanh qua cầu thang thứ nhất như những con
tuấn mã. Khi họ tới đỉnh cầu thang, Kornblatt nhảy nhảy như vận động viên
boxing.
- Nào, ta đi - Nói xong, anh ta đẩy cánh cửa mở tung.
Đi thêm một đoạn nữa đã tới sảnh đường. Cạnh cửa sảnh có hai bác sĩ đang
vươn vai, ngáp ngủ, trên đầu họ đều có đeo dải băng chữ viết tay: Tưởng
nhớ Ashmore.
Tôi hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra với Kent Herbert ấy nhỉ?
- Ai cơ? - Kornbatt hỏi lại.
- Herbert ấy. Một chuyên gia độc học. Có phải ông ta làm việc cùng với
Ashmore không?
- Tôi không biết còn có ai đó làm việc với Ashmore... - Anh ta ngập ngừng
- Herbert à. Tôi không thể nhớ nổi ông ta là ai.
Chúng tôi cùng tiến vào sảnh đường hình cái quạt lớn; những hàng ghế lót
vải màu xám được sắp xếp theo một mặt sàn nghiêng tới bục thuyết giảng
bằng gỗ. Chiếc bảng màu xanh lá cây được đặt trên mấy cái bánh xe đứng
sau bục. Nơi tựa lưng của những cái ghế là cao su và chỗ ngồi có đệm.
Tiếng nói chuyện rầm rì tràn ngập căn phòng.
Sảnh đường phải chứa tới 500 ghế ngồi nhưng không đầy mấy chục ghế có
người. Mọi người ngồi không tập trung khiến nơi đây giống như một lớp
thi lại. Kornblatt và đoàn người của anh ta tiến xuống phía trước của căn
phòng, bắt tay và chào hỏi với mọi người trên đường đi. Tôi dừng lại và