sơn cửu, tường vi kỷ độ hoa? Nghĩa là: Đã lâu
không tới non Đông, tầm xuân không biết đã
nở hoa mấy lần? Tiễn xuân la: Tên một loài
cây có hoa đẹp. Giống cây này, sách Quần
phương phổ gọi là tiễn hồng la. Thân cao hơn
thước, dọc mềm lá xanh. Hoa nở về mùa hạ,
có sáu cánh, tròn xoe như cắt. Còn một thứ
nữa gọi là tiễn thu la. Võng Xuyên là nơi thôn
cư thanh vắng mà nhà thi sĩ kiêm họa sĩ đời
Đường là Vương Duy ở. Vương vẽ toàn cảnh
chỗ ấy, tức là bức đồ Võng Xuyên. Tất xuất:
Con dế. Hạ cửu: Chín mươi ngày mùa hạ.
Sương tảo sương cam là cây táo, cây cam
đượm sương. Thanh hạ nghĩa là lúc thanh
thả, nhàn rỗi. Thông là hanh thông, tắc là ách
tắc. Cầm độc là chim muông; quan thường là
mũ xiêm. Ý câu này nói lẽ đâu ăn ở như loài
chim muông để làm cho ô danh cả đám sĩ phu.
Thiên la: Lưới giời. Tùy ngộ nhi an: Tùy theo
cảnh ngộ mà an phận. Hóa cơ vãng phục: Cơ
giời vận đi chuyển lại. Ý nói thái rồi đến bĩ, bĩ
rồi lại thái. Tác thiện: Làm điều lành. Lục
trầm: Chết chìm trên cạn. Người làm lành mà
phải chết chìm trên cạn, ý nói làm lành mà
chẳng gặp lành. Thận độc: Giữ nết thận trọng
dù trong lúc vắng vẻ một mình. Mạc ai: Đừng
buồn não. Khúc hát mạc ai nói đừng nên buồn
não làm gì. Quang âm: Bóng sáng, tức trỏ vào
thì giờ. Do tôn trọng nguyên bản nên có một
số thông tin, nội dung, chữ Hán chưa thực sự
chính xác. Chúng tôi giữ nguyên bản gốc. (BT)
Câu này thấy xuất hiện trong bài Đằng Vương