Ngọc khuê ngọc chương. Ngựa trắng tức là
bạch câu, nói ví mặt trời đi nhanh như ngựa.
Chó xanh tức là đám mây xanh như hình con
chó. Thơ ông Đỗ Phủ: Thiên thượng phù vân
như bạch y, tư tu biến huyễn vi thương cẩu =
Đám mây nổi trên giời như tấm áo trắng,
thoắt chốc biến thành con chó xanh. Nói ví
việc biến đổi không thường. Tức Hương sơn,
núi chùa Hương. Bến Hán là bến sông Ngân
Hán; hai sao là sao Ngâu sao Nữ, tức vợ chồng
Ngâu. Thất tịch: Đêm mồng 7 tháng 7. Mao ốc:
cái nhà lợp gianh. Lương Hồng đời Hán là
một nhà ẩn sĩ, có vợ là nàng Mạnh Quang, đối
với chồng rất là cung kính, mỗi khi bưng cơm
cho chồng, thường nâng mâm lên ngang lông
mày. Thuần là rau rút, lư là cá mè. Trương
Hàn làm quan ở Kinh đô, thấy gió thu thổi,
nhớ đến cá mè rau rút là những món ăn ở quê
hương Giang Nam, bèn cáo quan về. Bút giá:
Cái giá gác bút. Thi bình: Bức bình đề thơ.
Ông Đào Uyên Minh từng làm quan huyện
Bành Trạch, nên cũng gọi là Đào Bành Trạch.
Ông cáo quan về, thường có thần hoa cúc hiện
lên thành người mặc áo trắng đến đưa rượu
tặng. Phạm Lãi thôi làm tướng nước Việt, về
đi tiêu dao năm hồ, vui thú phong nguyệt, đổi
tên là Đào Chu. Dữu Tín ở ẩn trên một trái
núi, trồng rất nhiều mai, sau người ta gọi núi
ấy là Dữu Lĩnh, nghĩa là núi Dữu. Hòn Cô Sơn
ở Tây Hồ, thuộc tỉnh Chiết Giang nước Tàu.
Lâm Bô đời Tống ở ẩn tại đấy. Tường vi tức là
hoa tầm xuân. Thơ Đường: Bất hướng Đông