tập thơ của Đỗ Phủ. Phong là dồi dào, sắc là
nghèo ngặt, ý nói tạo hóa cho cái nọ dồi dào,
lại bắt cái kia nghèo ngặt. Truyện Kiều: Lạ gì
bỉ sắc tư phong. Tư Mã Tương Như làm bài
phú Lăng Vân, nổi tiếng là thánh phú. Đào Am
xưa có cái vườn trồng các thứ hoa. Thanh dạ
là đêm thanh. Lưu niên là năm trôi, nói năm
tháng trôi đi như nước. Cây phần cây du,
những thứ cây thường trồng ở thôn quê, nên
người ta cũng gọi nơi quê hương là phần du.
Vương Sán là người nước Ngụy đời Tam
Quốc, một nhà văn sĩ có danh, có làm bài phú
Đăng lâu, tả mối tình khi đứng trên lầu cao
trông về quê cũ. Hướng Tú là một nhà văn đời
Tấn, có bài thơ nhớ quê. Chữ gấm, chiếu vàng,
đều là nói về sắc mệnh của nhà vua. Ý nói
mong mỏi được tha. La võng là lưới bẫy. Kiều
Tử là tên hai thứ cây, kiều là thứ cây to, tử là
thứ cây nhỏ, nghĩa bóng để ví với cha con. Cơ
là cái thúng, cừu là áo cừu. Hai chữ này dùng
để nói con cháu biết nối được nghiệp của cha
ông, ví như con nhà thợ làm cung, biết bắt
chước cách làm cung mà uốn tre đan thành
cái thúng, con nhà thợ hàn, biết bắt chước
chắp vá các miếng da để làm thành áo cừu.
Đan là cái giỏ, biều là cái bầu. Xưa ông Nhan
Hồi, học trò đức thánh Khổng ở trong một
ngõ hẻm, chỉ có một giỏ cơm, một bầu nước,
lấy đó để sống mà vui với đạo học. Nhặng vo
ve là nói những tiếng lao xao của quân lính
đến bắt. Truyện Kiều tả lúc Vương Ông bị bắt
cũng có câu: Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh.