Bọn Nhật ngông nghênh, khua gươm tít mù, chỉ ra cánh đồng trước mặt:
“Nhổ lúa trồng đay”. Một câu ngắn nhưng như quả bom tấn nổ ngang tai
người làng Bung. Dân ngỡ ngàng. Các làng đều tìm cách lần lữa, trì hoãn
cái lệnh tai ách ấy. Kẻ cáo bệnh, người lảng đi làm việc khác. Cả cánh đồng
đang mơn mởn ngoài kia, ai có gan nhổ? Nhổ lúa khác nào hất đi bát cơm
của cả nhà?
Đám giặc lùn thúc! Dân cứ ngoảnh mặt làm ngơ. Quân Nhật điên cuồng.
Hai thằng lính Nhật, quần áo ka ki vàng, mũ trùm tai, gươm đeo quét đất
nghênh ngang đi lại trong làng. Đôi mắt ti hí của chúng nhòm ngó khắp
hang cùng ngõ hẻm. Vóc dáng lùn tịt cùng thứ ngôn ngữ xì xồ của chúng
như tiếng chim cú báo tai ương cho người dân vô tội. Người làng Bung tái
mặt. Bọn Nhật ốp lý trưởng của làng dồn dân ra đồng. Dân làng dồn lại.
Không ai chịu bước xuống ruộng. Mồ hôi của cả làng đã ngấm xuống đất
đai, làm nên sắc xanh của lúa trên những thửa ruộng bạt ngàn kia. Lúa vẫn
xanh nhức mắt, vẫn dồn nhựa sống lên những phiến lá tơ mềm như trêu,
như ghẹo. Bước chân người làng Bung chần chừ, rón rén trước ruộng lúa
đang thì. Ruột gan người làng Bung thắt lại trước sắc xanh ngỡ ngàng của
lúa thời con gái. Không một bàn chân nào nhúc nhích. Không một bàn tay
nào vươn ra. Câm lặng. Chỉ có lúa là vẫn xanh đến cồn cào.
Hai thằng lính Nhật nghiến răng lại. Lưỡi kiếm sáng quắc của chúng tung
khỏi vỏ, vung lên. Mặt chúng đỏ bầm màu máu. Chúng tuôn ra một tràng
như đạn súng máy vọt khỏi nòng. Ông lý trưởng làng Bung run như chim
dẻ cùi gặp bão, lập cập nhắc lại lời chúng với bà con. Lân không hiểu hai
thằng Nhật lùn kia nói gì, chỉ thấy lý trưởng thông ngôn lại, đại khái: Nếu
dân làng không chịu nhổ lúa trồng đay, chúng sẽ dùng kiếm mổ bụng moi
gan, hoặc chúng sẽ mổ bụng ngựa, bụng trâu, bò, nhét người vào đó rồi
khâu lại cho chết ngạt. Lời thông ngôn của lý trưởng, người làng Bung
không lạ. Chuyện giặc Nhật ác ôn, man rợ, dân làng đã nghe rất nhiều. Và
người dân làng Bung cũng không ngốc nghếch đến nỗi không tin quân Nhật
dám làm việc đó.