cái gai Đức Đại, chúng cũng quyết không để dân làng coi thường chúng.
Càn! Càn! Và càn! Chúng quyết làm Đức Đại thành vùng trắng, quyết làm
lòng người Đức Đại tê liệt. Không khuất phục được dân làng bằng những
thủ đoạn dụ dỗ, không khuất phục được lòng người bằg những thủ đoạn
mua chuộc đê hèn, chúng quyết dùng súng đạn, dùng những đòn thù dã
man khuất phục lòng người Đức Đại. Nhưng chúng nhầm. Dù chúng có càn
ngày một lần, ngày hai lần hoặc giả chúng có càn ngày này tiếp ngày khác,
trận càn này chưa qua, trận càn khác đã đổ đến, chúng cũng không đời nào
khuất phục nổi người dân Đức Đại. Càng càn, chúng càng khiến dân Đức
Đại trở nên sắt đá, càng khiến ý chí quyết tâm, chống lại quân thù trong
lòng người Đức Đại được hun đúc thành một khối thép mà không ngọn lửa
nào có thể nung chảy nổi.
Giữa tháng tư năm 51. Khi những bông hoa gạo cuối mùa rùng mình rời
cành đáp xuống mặt đất, khi những bông hoa bèo tây nở tím biếc biến
những ao, những đầm thành một tấm thảm hoa, quân Pháp lại đem bàn
chân bẩn thỉu của mình chà lại làng Đức Đại.
Quả mìn du kích thôn chôn ngầm, nổ ngay lối vào đầu làng khiến hai thằng
Pháp tung thây lên trời càng khiến những thằng còn lại ồ ồ xông vào làng
như bầy thú đói. Chúng lùa dân làng ra đình, lôi bà Muộm ra khỏi đám
người, túm tóc giật ngược lôi đi. Không biết bao nhiêu roi gân bò, báng
súng đám lính trút xuống người bà. Có thằng còn dúi đầu bà xuống, lật
ngửa mặt bà lên rồi lấy chính đôi giầy đinh của nó đạp, chà lên mặt bà.
Không chịu nổi, bà Muộm bật khai trong làng có Việt Minh về nằm vùng.
Lúc này, Lân, Tuyển, Bạ, Tỳ … và tất cả những anh em du kích khác đã
xuống hầm trú ẩn.
Túm được lời khai của bà Muộm, ngày hôm ấy, chúng chà đi chà lại, càn
làng Đức Đại đến bốn lần. “Phải tát cạn nước, bắt bằng được cá”. Thằng
đội Gầy nghiến hai hàm răng lại. Quân nguỵ đi trước vây chặt bốn bề,
quyết không cho một ai lọt ra khỏi làng. Số lính còn lại, chúng chia làm ba