Dẫn nhau lên lầu, họ ngồi bên bàn thấp. Cô hầu bàn tóc vàng hoe đến bên
cất giọng du dương hỏi họ dùng gì. Nghe Cleaver gọi rượu trắng, Glass yêu
cầu giống hệt.
Cleaver nhìn quanh căn phòng xây bằng gỗ súc sẫm màu:
- Ông có biết lúc trước chỗ này là gì không? Bãi chăn thả cừu đấy. Tôi
không đùa đâu mà. Giữa thập niên ba mươi, cừu vẫn còn chạy rông ở đây.
Chỗ này là nhà của mấy cục banh lông biết chạy kêu be be ấy. Mãi sau đó,
“cụ khốt” Moses, tức là chủ thầu tài ba Robert Moses, mới lùa chúng đi
chuẩn bị làm công viên. Thử tưởng tượng xem, có thời giữa thành phố này
là bãi thả cừu. (Rượu vừa mang đến, Cleaver nâng ly), uống vì người đã
khuất.
Họ nhấp môi sau câu chúc tụng không rõ nghĩa ấy. Cleaver dựa hẳn vào
lưng ghế, buồn bã nhìn Glass. Gã cười mỉa, chế nhạo Glass:
- Riley cực kỳ thất vọng về ông đấy. Hắn nghĩ ông bán rẻ linh hồn, tô vẽ
cho những cuộc phiêu lưu của bố vợ.
- Riley cũng bảo tôi thế. Hắn chẳng biết gì về tôi hết.
- Biết chứ! Ông bạn ơi, Riley biết đủ thứ về ông. Hắn ráo riết tìm hiểu mà.
- Cây ngay không sợ chết đứng. Chắc cậu hiểu câu đó hơn tôi.
Tiếng mưa rì rào từ ngoài vẳng tới. Glass hình dung bầy cừu ung dung gặm
cỏ cách nay gần một thế kỷ. Chắc nó giống một cảnh trong phim của
Winslow Homer. Chắc chắn Cleaver bịa chuyện bầy cừu trong công viên
trung tâm. Glass không biết Cleaver là người thế nào nếu chỉ nhìn kiểu cười
toe toét, kiểu để râu và kiểu áo hai màu trắng đen như của người hát rong.
Càng lúc ông càng ngại rằng nếu cứ ngồi nói tào lao thế này, ông sẽ càng
rối trí và Cleaver chẳng bao giờ đi vào vấn đề chính. Ông nóng lòng muốn
biết gã dự định tiết lộ điều gì.