thiên tử cũng không bắt làm tôi được". Chu An là người như thế. Biết
không thể ép được tiên sinh, Nghệ tông lại hỏi:
- Tiên sinh hẳn biết, sức quân ta hiện thời yếu lắm. Ta lo cả mặt bắc lẫn
mặt nam, vạn nhất xảy ra nạn ngoại xâm khó bề mà giữ toàn đất nước, tiên
sinh có phương sách gì hưng được thế quân?
Với vẻ dáng điềm tĩnh, Chu An lại chậm rãi dâng lời:
- Tâu bệ hạ, cứ xem việc dụng binh của đức Hưng Đạo đại vương xưa
thì muốn hưng sức quân, trước hết phải hưng sức dân. Có thế người lính
mới yên tâm ở nơi quân ngũ mà không phải lo đến cha già mẹ yếu, vợ dại
con thơ. Rồi lại phải có tình yêu thương binh sĩ như con cái mình vậy, đời
sau thường gọi tình cảm đó là "phụ tử chi binh". Thời Trùng hưng làm được
các việc đó nên sức quân ta mạnh lắm.
- Ai có thể làm được việc đó thời nay? Nghệ tông hỏi.
- Tâu bệ hạ, đời nay thần chưa thấy ai làm được việc đó như đức Hưng
Đạo. Nhưng làm được gần như Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải thì
không ai ngoài vị chắt nội của đức Chiêu Minh, tức quan Tư đồ Trần
Nguyên Đán, hiện đang trông coi tòa Khâm thiên giám đó. Nếu được cất
nhắc tin dùng, quan Tư đồ có thể là trụ cột của nước, xin bệ hạ lưu tâm.
Sau ba ngày đàm đạo, Chu An một mực xin cáo thoái. Biết đức mỏng
không thể lưu giữ được bậc cao sĩ như Chu An, Nghệ hoàng ban thưởng rất
hậu cho tiên sinh, lại sai xe kiệu đưa rước tiên sinh về Thanh Đàm, là quê
quán của tiên sinh.
Mọi vật phẩm vua ban, kể cả tấm áo Hồ cừu mặc tạm, Chu An đều trả
lại vua hết. Chu An về làng bằng chiếc cáng võng gai với hai đứa tiểu đồng,
như tiên sinh đã đến Thăng Long bữa trước. Nghệ tông đưa tiễn Chu An
một quãng khá xa cửa Quảng Phúc ở phía tây hoàng thành, khi thầy trò tiên
sinh khuất dạng rồi nhà vua mới quay lại, dạ bùi ngùi.