Nhiên, và hữu tướng quốc cung tín vương Trần Thiên Trạch đồng giám
quốc. Thượng hoàng Nghệ tông giám sát việc triều chính.
Tháng 12 năm Bính thìn (1376), vua thân làm tướng, đem 12 vạn quân
từ kinh sư kéo đi. Ấy là chưa kể hai vạn quân trước đó đã sai Đỗ Tử Bình
ém ở Châu Hóa. Vua sai tham mưu quân sự Lê Quý Ly làm tướng đốc
lương, giám sát các xứ Nghệ An, Tân Bình ngày đêm chở lương gấp ra mặt
trận cung cấp cho hai quân thủy, bộ.
Quân vừa ra khỏi kinh thành được vài dặm, tới đầu bến sông xã Bát
Tràng thì gặp đám ma. Vua không vui, sai dẹp đám ma lấy đường quân đi,
phạt hiếu chủ 30 quan tiền.
Duệ tông và tùy tùng đi theo đoàn thuyền chiến đến thẳng cửa Di Luân
(Tức cửa Ròn thuộc huyện Cảnh Dương, tỉnh Quảng Bình ngày nay) thì
vua lên bộ đi với quân kỵ. Vua ban lệnh quân bộ, quân thủy đều hội cả ở
cửa Nhật Lệ ( nay thuộc thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Khi vua tới
Nhật Lệ, truyền cho quân sĩ nghỉ ngơi ba ngày. Tiếp đó cho quân luyện tập
cách đánh thủy, đánh bộ, công thành, diệt viện theo địa bàn xứ Chiêm
Thành. Ăn tết xong, nhà vua lại cho quân luyện tập thêm vài bữa nữa, rồi
tất cả đại đội binh mã xuống thuyền nhằm thẳng cửa Thị Nại đổ quân.
(Thị Nại: Thuộc Quy Nhơn. Cửa biển đó đã bị cát bồi, nay chỉ còn dấu
vết đầm, hồ).
Mười hai vạn quân đổ lên đen kịt cả một vùng bờ biển bao la, không hề
có một đạo quân Chiêm nào dám chống cự. Vua sai lập trại trước động Ỷ
Mang. Tiền quân hiệu úy do đại tướng Đỗ Lễ; tả hữu dực do các tướng
Nguyễn Nạp Hòa, Phạm Huyền Linh đảm trách. Vua thân giữ trung quân có
Ngự câu vương Húc là con thứ của thượng hoàng Nghệ tông dưới trướng.
Lại thêm các tướng Trần Tông Ngoạn, Trần Trung Hiếu, Trần Thế Đăng,
Trần Khắc Chấn, Bùi Bá Nang, Hoàng Phụng Thế, Lê Mật Ôn, Ôn Dã Kha,
Nguyễn Kim Ngao, Nguyễn Tiến Luật... quản các vệ quân Thiên đình, Bảo
tiệp, Thần dực, Thần sách, Thánh dực, Thiên uy, Thị vệ, Thần vũ... theo hầu
nhà vua.
Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân; Lê Quý Ly đốc quân tải lương ở mãi phía
sau.