yên tâm ở chức. Cho nên, theo ta điều duy nhất có thể làm được trong lúc
này, là giám sát các hành vi của Quý Ly và bọn Đa Phương, Cự Luận.
Lê Á Phu cũng nói thêm vào:
- Bên thẩm hình viện chỉ xét xử khi bị cáo đã lâm vào tình trạng phạm
pháp quả tang, hoặc có chứng cớ ngoại phạm rõ ràng. Cho nên ý của thái úy
răn như vậy là đúng.
Ngư sử đại phu Nguyễn Hà dược thái úy hỏi về việc Ngự câu Húc nên
xử thế nào, bèn đáp:
- Thưa thái úy, nếu về lý mà xét, vương mắc tội phản quốc, cứ chiểu
luật thi hành. Song đứng về tình thì lại khác. Dù sao vương cũng còn non
dại, lại gặp lũ giặc quỉ quyệt nên vương bị gạt. Việc này, trước hết phải
bằng mọi cách cử người tâm phúc vào tận Hóa Châu, dụ cho vương ra
ngoài này đã. Nếu vương không ra thì cử đại binh vào đánh bắt lấy, kẻo cứ
để cho giặc lợi dụng mãi, cũng là mối nhục cho nước. Khi bắt được vương
rồi, thiết tưởng tướng quốc xin ý chỉ của thượng hoàng mà xử là đủ. Việc
này không nên để kéo dài, thất lợi lắm.
Tả tướng quốc thái úy Trang định vương Ngạc đem các chuyện ra tâu
với quan gia, nhưng ông không nói đã có bàn riêng với một số người tại
vương phủ.
Nghe các điều tướng quốc tường trình, đế Nghiễn ngơ ngác hỏi:
- Vậy chớ vương huynh định sao?
Nhà vua là con Duệ tông; Duệ tông là em ruột Nghệ tông, mà Vương
Ngạc là con của Nghệ tông; vì vậy theo thứ bậc vua phải gọi Ngạc bằng anh
họ.
- Tâu, việc ấy là do ở hoàng thượng quyết chứ- tướng quốc đáp.
- Ta quyết sao được. Theo ta, những gì thượng hoàng đã quyết, tướng
quốc và ta đều phải tuân phục. Chuyện về Quý Ly, tưởng không nên bàn
nữa.
- Tâu, thế còn chuyện Húc thì sao?
- Húc đang ở trong trại giặc mãi tận Hóa Châu thì ta làm thế nào được.
Tướng quốc định xử việc này ra sao?