canh, mà cửa lầu lâu nay lại còn được gài vào một ổ khóa lớn. Hai cánh cửa
lầu vẫn khép kín, ổ khóa vẫn im ỉm nằm kia, nhưng đúng là trong lầu có
người đang thúc trống.
Cả một đô lính hò hét, giáo mác bao vây lầu trống. Khi hai cánh cửa mở
toang ra, người ta thấy một bà già tóc bạc trắng đang ngồi vắt vẻo trên chiếc
xà ngang, vẫn giương thẳng cánh nện dùi xuống mặt trống mỗi lúc một
thêm hối hả. Trên nóc lầu, một mảng trời sáng hiện ra to bằng chiếc sàng
gạo. Chính bà lão ấy đã rỡ ngói chui vào lầu từ đêm mà lính canh không
biết.
Đích thân quan đình úy ân cần mời bà vào viện.
Bà lão mệt như muốn ngất. Mồ hôi toát ướt hết áo, tóc hai bên mang tai
bà cũng bết dính lại. Nhưng đôi mắt bà rực sáng, đến nỗi ta có cảm giác, đặt
vào đó một dúm bùi nhùi; lửa sẽ bùng lên. Quan đình úy hơi cúi xuống,
tuồng như ông sợ nhìn vào đôi mắt ấy. Nhiều năm trong cuộc đời làm cái
nghề án tích này cho ông biết, những người như thế, đừng có chọc giận họ.
Vì vậy, ông bỏ qua tất cả những gì gọi là lỗi lầm khi bà đột nhập lầu trống
như một tên đạo chích, mà nhẹ nhàng hỏi:
- Vậy chớ lão bà có điều gì oan khuất cần đến cán cân công lý ?
- Ai giữ cán cân công lý ở đây? Bà bất chấp cả lễ nghi trên dưới. Bà hỏi
cứ như bà là quan tòa chứ không phải nạn nhân.
Cũng không chấp nê với người đang oan ức, lòng đầy oán hờn. Quan
đình úy nhẹ nhàng đáp:
- Tôi đây, lão bà. Tôi là đình úy tự khanh. Đây là Viện đăng văn, cơ
quan luật pháp cao nhất của triều đình.
- Thế ông đình úy đây, có phải tên là Nguyễn Trung Ngạn không? Nếu
là ông Ngạn thời tôi mới nói hết khúc nhôi để ông xét.
Quan đình úy rất lấy làm đau lòng, vì như thế có nghĩa là tiếng tăm đã
đồn khắp trong dân, rằng ông không phải là kẻ đại diện trung thực cho cán
cân công lý. Tuy suốt đời ông giữ một lòng ngay thẳng, thanh liêm, nhưng
đúng là ông chưa dám làm một việc gì đụng đến các đại quan khi họ mắc
trọng án. Ông đành nói với bà lão: