XVIII
Nghệ hoàng từ bữa trò chuyện với Trần Nguyên Đán, với Chu An trong
lòng nhà vua thấy ấm áp, vững tin ở mình hơn. Ông cũng nhìn thẳng vào
hiện tình đất nước, và thấy hậu quả của mấy chục năm dưới thời Đại trị, Dụ
tông đã để cho bọn quyền gian lộng hành phá nát mọi kỷ cương rường mối.
Dân tình đói khổ, ta oán triều đình. Ngay đến cả người tôn thất cũng chia
lòng, cũng nghi kỵ nhau. Bè gian đảng nịnh mọc lên như nấm. Trộm cướp
nổi lên như rươi, ngay kinh sư mà chúng cũng không kiêng nể, giết người
cướp của trắng trợn giữa ban ngày, giữa phố đông. Người lương thiện sợ kẻ
gian, thấy chúng cướp của, chúng hành hung người khác mà không dám
kêu cứu, không dám bẩm báo quan trên, là vì sợ chúng trả thù. Người dân
lương thiện sợ kẻ gian đã đành, nhưng đến quan tòa cũng sợ kẻ gian không
dám thẳng tay trừng trị chúng theo luật pháp. Và nữa chúng chạy tội cho
nhau, thu xếp giá cả với quan tòa ngay trước công đường, ngay trong lúc
tòa đang xét xử, thì quả là chúng coi luật pháp của quốc gia này không bằng
những thứ đồ dơ đáy thải bỏ. Tất cả những điều ấy, hoặc là Nghệ tông nghe
thấy, nhìn thấy ngay từ khi sinh thời Dụ tông, hoặc gần đây người ta mách
bảo với nhà vua.
Để chấn chỉnh rường mối, Nghệ tông nghĩ rằng ngoài pháp độ nghiêm
minh, còn cần phải có tay chân thân tín. Vì vậy nhà vua chỉ dụ phải bãi bỏ
các sắc luật vô lý như xắn chân bãi bồi để đánh thuế, hoặc kiểm kê tài sản
của người chết để thu lấy vật quý. Về phong tục cũng như áo mão triều
đình, đều nhất nhất theo phong hóa của nước ta. Cấm ngặt việc bắt chước
nhà Tống, nhà Minh. Lại xuống chiếu cho người dân trong nước không
được mặc áo quần theo kiểu người phương Bắc, và không được nói tiếng
Chiêm, tiếng Lào và tiếng các nước ở những nơi đông người. Nghệ hoàng
thường nói: “Tiếng nói là cái hồn của một dân tộc. Sở dĩ cả ngàn năm
người Tầu đô hộ mà không Hán hóa được Đại Việt, là bởi dân ta gìn giữ
được tiếng nói của mình. Vậy ngôn ngữ, tự thân nó có sức mạnh thần