Ngày 18 tháng Năm. - Không có gì đáng chú ý. chúng tôi mua được ít
thứ hàng.
Ngày 19 tháng Năm. - Chỗ 20 hòm bạc đem vào phủ cho các quan cai bạ
cân, họ cân gian lên thành hụt hẳn đi mất 80G Nhật.
Quan cai bộ trưởng, là chủ nhà trọ của chúng tôi, cấm dân gian bán bất
cứ thức gì cho chúng tôi.
Chiều nay, họ cân cho chúng tôi 50 tạ tơ sống, đóng thành 100 bó.
Tối đến thì chúng tôi điều đình ổn thỏa với quan cai bộ trưởng: cứ mười
hòm bạc thì ông bán cho chúng tôi...
Ngày 30 tháng Năm. - Mua bán bây giờ đã hơn trước. Quan cai bộ
trưởng Taphay dạm bán cho chúng tôi; cứ ba hòm bạc này thì 1 fackaer bạc
lấy 19 fackaer tơ. Chúng tôi nhờ bà cụ Basumano điều đình để mua tơ hạng
nhì; chúng tôi đem 22 fackaer bạc họ đòi 23 fackaer chúng tôi không chịu.
Bây giờ mới biết xứ này mỗi năm sản xuất được 3.000 tạ tơ sống.
Ngày 31 tháng Năm (lễ Pentecôte). - Chúng tôi cho chở xuống tàu to bốn
đò hàng đã mua được.
Mồng 1 tháng Sáu. - chúa ra lệnh giải phóng những người Hòa Lan đã bị
bắt trên sông Possin. Họ trả giá chúng tôi 6 lạng một tạ đồng và 2 lạng một
tạ sắt. Nhưng họ không đả động gì đến chỗ súng đạn đã thấy trên thuyền cả.
Mồng 2 tháng Sáu. - Chúng tôi cho đò chở 14 người Hòa Lan ra tàu.
Chúa sai một viên cai bạ trẻ đến hỏi ông Hartsinck xem có phải:
1) Chúa Nguyễn đã nhượng lại cho chúng tôi cù lao Chàm; và có phải
chúa Nguyễn đã đem 17.000 lạng bạc mua 150 hạt ngọc của chúng tôi
không?
Chúng tôi trả lời: Không, những chuyện ấy là do người Bồ Đào bịa đặt ra
cả.
2) Có phải chúa Nguyễn đã lấy tiền của chúng tôi không?