nào gặp lại ông bà bên ấy để nói lại. Thôi thì hôm nay, cha con ta đứng
trước dòng sông này, cha hỏi con một lần cuối, nếu con nhất quyết không
theo, cha đành phải đẩy con xuống sông rồi cha cũng sẽ gieo mình chết
theo con tại bến sông này!
Sau câu chuyện tình ngang trái như vậy, tôi không được nghe ai kể tiếp
về cuộc sống của hai Cụ sau đó ra sao? Tuy nhiên, từ khi biết Cụ, tôi dám
chắc một điều: Những năm tháng cuối đời, Cụ Phấn rất thương vợ! Cụ
thường nói với cha mẹ tôi một điều: “Tôi rất thương bà nhà tôi, tôi đi suốt
ngày, còn bà ấy ở nhà một mình, buồn. Cho nên, ra ngoài có miếng ăn ngon
bao giờ tôi cũng nghĩ đến bà nhà tôi!”.
Quả đúng vậy. Cha mẹ tôi biết hoàn cảnh Cụ khó khăn, ngày ăn hai bữa,
nên mỗi khi nhà có miếng ăn chín như: củ khoai, quả chuối chín, hay tấm
bánh, khoanh giò lụa thường hay đem ra mời Cụ. Mỗi lần như vậy, Cụ chỉ
xin một ít mang về chứ không ăn. Biết tính cụ ông thương cụ bà, mẹ tôi
phải nói trước để Cụ an lòng: “Cháu mời Cụ xơi ạ, phần cụ bà cháu đã gói
riêng để lát nữa Cụ mang về!”. Hoặc có đêm cụ ông ngồi đọc báo, bà kêu
khó ngủ bắt tắt đèn. Cụ Phấn mang báo ra ngồi xem dưới ánh đèn ở chân
cầu thang ngoài hành lang Khu tập thể... Chuyện Cụ Phấn thương yêu
nhường nhịn cụ bà, những người sinh hoạt Chiếu Văn ở trong nhà tôi, hầu
như ai cũng biết.
Có thể nói, cuộc sống những năm tháng cuối đời của Cụ Phấn cứ thế mà
chậm chạp trôi, cho tới một ngày cụ bà qua đời, Cụ Phấn buồn bỏ bữa, tôi
không còn gặp cảnh sáng ra thấy Cụ mang bị đi mua báo nữa. Cụ bà mất,
con trai Cụ đón cha về nhà săn sóc. Trước khi đi, Cụ Phấn sang chào từ biệt
cha mẹ tôi. Tôi thấy hai mắt Cụ đọng lệ, như giọt sương trên lá tre già,
giọng nghèn nghẹn... Cha tôi tiễn Cụ xuống tận chân cầu thang Khu tập thể.
Từ ngày Cụ Phấn về với con trai Cụ ở quận Thanh Xuân, cho đến ngày
qua đời, dường như Cụ không đi đâu được nữa. Cha tôi nhớ Cụ, rủ mấy anh
em sinh hoạt Chiếu Văn xuống thăm. Được gặp lại nhau, Cụ mừng lắm...