thôi, hoặc cũng có thể con bé đang có nhiều việc phải làm, không thể về
Charlottesville đúng lúc sẽ gây ra nhiều tai họa hơn tôi tưởng.
Tôi tắt lò sưởi và kiểm tra chuông chống trộm một lần nữa để đảm bảo
chuông đã được bật rồi quay về phòng ngủ, đóng cửa lại. Nhưng tôi vẫn
không thể chợp mắt nên đành ngồi trong ánh đèn bàn vừa nghe ngóng thời
tiết bên ngoài vừa xem xét thông tin in trong máy fax của Eddings. Có
mười tám số gọi đi trong hai tuần qua, và tất cả điều này có thể suy luận
được rằng chắc chắn cậu ta đã làm việc ở nhà một thời gian.
Điều khiến tôi chú ý là nếu cậu ta làm việc ở nhà thì tôi đã có thể thấy
vô số những cuộc trao đổi với văn phòng AP trong thành phố. Nhưng không
phải. Từ giữa tháng Mười hai, cậu ta chỉ gửi fax cho văn phòng hai lần, ít
nhất là từ số máy chúng tôi thấy trong nhà cậu ta. Để xác định được điều
này rất đơn giản, vì cậu ta đã mặc định số gọi nhanh cho số fax cho nên số
máy bàn của văn phòng AP xuất hiện trong cột định danh của thông kê, còn
những tên khác thì không rõ bằng như “NVSE”, “DRMS”, “CPT” và
“LM”. Ba trong những số trên là mã vùng của Tidewater, Bắc và Trung
Virginia, cùng các số tổng đài, trong khi mã vùng DRMS là Memphis,
Tennessee.
Tôi cố gắng ngủ nhưng những thông tin cứ lơ lửng trước mắt và hàng
loạt câu hỏi đặt ra khiến tôi không thể bỏ qua được. Tôi tự hỏi Eddings đã
liên lạc với ai ở những nơi đó, liệu những cú điện thoại ấy có ý nghĩa gì
không. Còn một điều tôi không thể ngừng nghĩ đến đó là nơi cậu ta chết.
Tôi vẫn có thể nhìn thấy cái xác trôi lơ lửng dưới dòng sông đen thẫm, bị
chằng giữ bởi một ống nhựa vô dụng mắc vào chân vịt han rỉ. Tôi có thể
cảm nhận được cơ thể cứng đanh lại khi giữ cậu ta trong tay để đưa lên mặt
nước. Chẳng cần phải chờ đến lúc trồi lên tôi cũng hiểu rằng cậu ta đã chết
trước đó nhiều giờ.
Ba giờ sáng, tôi ngồi trên giường và nhìn ra màn đêm. Ngôi nhà chìm
trong yên tĩnh trừ tiếng cót két mọi khi, và tôi vẫn không thể ngăn được