cánh trên thân máy bay nữa mà là một bông hoa hoàn toàn bung nở sau khi
tung khỏi đài hoa, một thứ tổng hòa ngẫu sinh, liên quan một cách bí mật
với con người, cùng chất lượng với chất lượng bài thơ. Dường như sự hoàn
chỉnh được đạt tới không phải là lúc không còn gì để thêm nữa mà là lúc
không còn gì để bớt nữa. Vào chặng cuối cùng của sự tiến hóa, cái máy tự
ẩn mình đi.
Như vậy đấy, sự hoàn chỉnh của sáng tạo dẫn đến chỗ không có vết của
sáng tạo. Và, trong đồ dùng, mọi cơ học mặt ngoài dần dần xóa đi, ta được
trao vào tay một vật tự nhiên y như một hòn sỏi do sóng biển mài giũa,
cũng thế đấy, tuyệt diệu như vậy, sao cho trong chính khi sử dụng, cái máy
làm cho người ta lần lần quên chính cái máy đi.
Ngày xưa, ta tiếp xúc với một nhà máy phức tạp. Nay một cỗ máy quay
đến làm ta quên là có nó. Nhưng mà sau rốt nó làm tròn chức năng của nó
là quay, như một trái tim đập, và ta cũng tuyệt không để ý đến trái tim ta.
Sự chú tâm này không bị đồ dùng cuốn hút nữa. Bên kia đồ dùng và xuyên
qua nó, ấy là cái bản chất cũ xưa mà ta tìm thấy, bản chất của người làm
vườn, người lái tàu hoặc của nhà thơ.
Ấy là với nước, với không khí mà người lái tiếp xúc khi cất cánh. Khi
các máy móc đã phát động rồi, khi máy bay đã xới biển lên rồi, tàu bị sóng
đánh một cái thật mạnh rền lên như tiếng chiêng, con người theo sự rung
động của lưng của cật mình có thể theo dõi được công việc ấy. Anh cảm
thấy chiếc thủy phi cơ, từng giây một, cứ thay đổi tốc độ thì như tăng thêm
quyền lực. Anh cảm thấy có một cái gì chín muồi trưởng thành lên trong
mười lăm tấn vật chất ấy, chính cái chín muồi ấy làm cho nó bay được.
Người lái khép chặt tay vào cần lái và, dần dà, trong lòng hai bàn tay trống
của mình, anh tiếp nhận quyền lực đó giống như một thiên năng. Các bộ
phận bằng kim khí của các cần lái, một khi cái thiên năng ấy đã được ban
cho, trở nên những sứ giả của quyền lực nơi anh. Khi cái quyền lực ấy chín
muồi, với một cử chỉ còn dẻo hơn là cử chỉ hái hoa, người lái tách chiếc
máy bay ra khỏi mặt nước, và đặt nó vào không gian.