CUỘC SỐNG Ở ĐÀNG TRONG: HỘI NHẬP VÀ SÁNG TẠO 229
một cách rộng rãi ở Đàng Trong hồi giữa thế kỷ 16 đến thế kỷ
19. Hầu như chắc chắn loại ghe này làm theo mẫu của người
Chăm, bởi vì vùng loại ghe này được sử dụng kéo dài từ Hội An
xuôi xuống phía nam tới Thuận Hải là vùng đất người Chăm
vẫn thường sống. Một số nhà nghiên cứu người Việt còn khẳng
định rằng không chỉ kỹ thuật mà đến cả tên gọi ghe và bàu cũng
được vay mượn của người Mã Lai. Các tác giả này lưu ý tới sự
giống nhau giữa từ ghe của tiếng Việt với từ gai của tiếng Mã Lai,
và gợi ý cho thấy là bàu có thể là cách đọc trại đi của từ prahu
của tiếng Mã Lai
1
. Đoạn Barrow tả về ghe thuyền trong vùng
Turan chắc chắn hỗ trợ cho khẳng định này: Tác giả ghi nhận
có “nhiều kiểu: phần nhiều giống như các Sampan của người
Hoa có phên phủ... có cái giống như các proas thông thường
của người Mã Lai, về thân ghe lẫn chằng néo các cột buồm”
2
.
Về dụng cụ làm ruộng, một số nhà sử học Việt Nam đã nêu
rõ ảnh hưởng của Chăm trên các dụng cụ này, đặc biệt là cây
cày của người Việt. Cây cày của người Việt tại đồng bằng sông
Hồng và sông Mã không mạnh ở đế, và có một cái lưỡi nhỏ và
khá nhẹ để một vật kéo cũng có thể kéo nổi. Loại cày này thích
hợp với loại đất không rắn lắm và ít cỏ, và đáp ứng các đặc tính
đất đai ở phía bắc - được canh tác cả ngàn năm bởi một dân
cư đông đúc - và chỉ thấy có ở phía bắc sông Gianh, ranh giới
giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Khi người Việt từ phía bắc
xuống phía nam, họ phải đối phó với một loại đất cứng và cỏ
dày. Chính vì lý do đó mà người Việt đã sử dụng cây cày của
người Chăm và cải tiến cho tiện sử dụng. Cây cày của người
nông dân Chăm khá cứng cáp, đặc biệt nơi phần đế. Người Việt
đã chế thêm một cái nang để điều chỉnh góc và biến cây cày này
1 Nguyễn Bội Liên, Trần Vân An và Nguyễn Văn Phi, “Ghe bàu Hội An - xứ Quảng”, tham luận tại Hội nghị
quốc tế về thành phố cổ Hội An, tháng ba 1990, trg. 2-3.
2 Barrow,
A Voyage, trg. 319.
www.hocthuatphuongdong.vn