Rốt cuộc cũng tới phiên tôi. Tôi phủi đám lông của Bowie khỏi váy (tôi
đã ma mãnh mặc màu trắng để khỏa đi), ưỡn thẳng vai và bước xuống hành
lang.
“Chào Callie!” Là Earl, chuyên viên kỹ thuật đã làm việc tại đây từ lâu
lắm rồi.
“Chào chú Earl!” tôi đáp và ôm chú.
“Đừng có nói là Bowie bị ốm nhé,” Earl nói.
“Ôi, ốm tí tẹo thôi ạ,” tôi đáp mà đỏ cả mặt.
“Ra thế,” Earl nói với vẻ thấu hiểu. Tiếc là Earl đã sang tuổi lục tuần.
Tôi rất quý chú.
Tôi đi đến phòng khám số 4 và ngồi xuống băng ghế gỗ cứng nhỏ. Bác
sĩ Kumar từng cho treo mấy bức tranh tại đây… loạt tranh về mấy chú chó
đang chơi bi a băng hay bi a lỗ. Các bức tranh ấy nay đã bị dẹp đi mất,
nhưng mấy bức tường đều được sơn lại một màu nâu đỏ, trông cũng khá là
dễ chịu. Ngoài điều đó ra, nơi này chỉ đơn điệu như mọi phòng khám thú y
khác – bàn kim loại, tủ lạnh nhỏ chứa vắc xin, cân sức khỏe cùng áp phích
về các bệnh lây nhiễm do ve cắn. Toàn bộ khung cảnh khiến tôi khá buồn
ngủ. Bowie có vẻ như đang chia sẻ cùng một tâm tư – nó ngáp dài rồi phủ
phục dưới chân tôi mà nhịp nhàng rên ư ử.
Ngồi tại phòng khám thú y này đem lại cho tôi rất nhiều ký ức vui vẻ,
cộng thêm vài ký ức buồn. Chúng tôi lúc bé không được phép nuôi thú
cảnh… khi tôi chừng chín tuổi chúng tôi đã thử nuôi mèo, nhưng một ngày
nọ con mèo ấy lại chui vào trong một quan tài có chứa xác và trong lúc lễ
viếng đang diễn ra thì nó vùng mình xuất hiện, làm cả gia đình của người
quá cố thất kinh, thế là mẹ đem con Mèo Loang đến cho một nông trại đáng
yêu.
Nhưng tôi luôn luôn yêu quý thú vật, và khi tôi lên mười bốn, bác sĩ
Kumar cho tôi đến đây lau dọn chuồng thú, rồi khi tôi lớn hơn, bác để tôi
tắm rửa cho chó. Khi một con thú cảnh nào đó chết đi, bác sĩ K. thỉnh
thoảng bảo tôi chép tay bài thơ “Cây cầu vồng bảy sắc” để ông gửi đến cho