không có khả năng và thực lực khởi lên một cuộc cách mạng. Chỉ vài giờ
sau Nhật Hoàng tuyên bố thiết quân luật tại Ðông Kinh. Khi viên tướng già
tùy viên quân sự của Nhật Hoàng phản đối lệnh thiết quân luật, Nhật Hoàng
cho biết sẽ tự mình hướng dẫn Vệ Binh Hoàng Gia đi dẹp loạn. Khi phe
phản loạn nghe biết lòng cương quyết của Nhật Hoàng thì cuộc khởi loạn
lập tức tan rã. Cuối cùng 13 sĩ quan trẻ bị buộc tội phản quốc và bị xử tử.
Cuộc nổi loạn năm 1936 đã đưa đô đốc Yamamoto vào chính trường, một
lãnh vực ông không thích và đem lại cho ông nhiều hung hiểm hơn là ngoài
chiến trường. Sau khi cuộc nổi loạn thất bại, phe quá khích trong lục quân
và hải quân im lặng hơn trước, nhiều tướng lãnh phải về hưu và thủ tướng
ôn hoà Koki Hirota đứng ra lập chánh phủ. Vì ngả theo phe quá khích, đô
đốc Osumi mất chức bộ trưởng hải quân và đô đốc Nagano được chọn thay
thế. Nagano muốn Yamamoto làm thứ trưởng cho mình, vì Yamamoto nói
giỏi tiếng Anh và thông thạo các vấn đề Anh Mỹ; ngoài ra trong hội nghị
tại Luân Ðôn, Yamamoto đã chứng tỏ là một nhà ngoại giao có tài, và quan
điểm ôn hòa của Yamamoto đối với Anh Mỹ rất trùng hợp với chủ trương
của thủ tướng Hirota.
Thoạt đầu Yamamoto từ chối không nhận chức thứ trưởng, vì ông vốn
không ưa chính trị, và ông rất yêu thích nhiệm vụ phát triển không lực cho
hải quân của ông. Nhưng khi đô đốc Nagano đặt trách nhiệm và lòng ái
quốc ra thì Yamamoto đành phải miễn cưỡng chấp nhận bước vào sân khấu
chính trị. Thế là cuối năm 1936, đô đốc Yamamoto bước vào một lãnh vực
mới, thiên về chính trị ngoại giao hơn là quân sự. Ông dùng hết khả năng
ngăn chặn không cho phe quá khích nắm được quyền hành. Ðây là giai
đoạn nguy hiểm nhất trong suốt cuộc đời của ông. Chỉ vài ngày sau khi
nhận chức thứ trưởng, Yamamoto trở thành mục tiêu ám sát số một của phe
ái quốc cực đoan.
Phe cực đoan vô cùng bất mãn trước quan điểm của Yamamoto khi ông cho
rằng khai chiến với Hoa Kỳ là một hành động tự tử, vì sức mạnh kinh tế vô