Ðô đốc Yamamoto đòi kiểm kê số tồn trữ dầu hỏa và được biết Nhật lúc đó
có 6 triệu 450 ngàn tấn dầu, đủ dùng cho 18 tháng. Dù Nhật hết sức tiết
kiệm thì cũng chỉ đủ dùng trong ba năm.
Do đó việc cấm bán dầu cho Nhật đã là một tối hậu thư. Nhật Bản phải tuân
theo ý muốn của Hoa Kỳ để có dầu hay phải khai chiến? Lục quân có một
kế hoạch chiếm các mỏ dầu tại Nam Dương, nhưng Yamamoto lo ngại rằng
trong lúc Nhật tung quân chiếm các mỏ dầu Nam Dương mà hạm đội Mỹ
tại Trân châu cảng mở cuộc tấn công vào lãnh thổ Nhật thì sao? Tham mưu
trưởng hải quân Nhật, đô đốc Nagano, đề nghị tung hết lực lượng hải quân
Nhật ra chiếm Nam Dương thật mau lẹ để hải quân Mỹ không kịp trở tay.
Hải quân Nhật tin tưởng rằng trong trường hợp có chiến tranh, hạm đội Mỹ
sẽ phải tiến tới phía tây Thái bình dương, và như thế hải quân Nhật có lợi
điểm được nghênh địch ngay tại vùng biển quen thuộc gần nhà.
Vào thời kỳ đó các tư lệnh hải quân Nhật chưa hề nghĩ tới việc đem hạm
đội Nhật tới tận vùng biển Hawaii để tấn công hạm đội Mỹ. Ðô đốc
Yamamoto luôn luôn lo lắng hạm đội Mỹ sẽ tấn công trong lúc phần lớn
hạm đội Nhật bận đi đánh chiếm Nam Dương, và trong trường hợp ấy, ông
không nghĩ ông có thể đương đầu với hạm đội của Mỹ được. Yamamoto
muốn ra tay trước để ngăn chặn hiểm họa bị tấn công. Yamamoto muốn tấn
công tiêu diệt hạm đội Mỹ ngay tại căn cứ Trân châu cảng, đặc biệt là phải
diệt cho bằng được lực lượng mẫu hạm địch. Ðây là một ý tưởng thật táo
bạo. Yamamoto nghĩ rằng nếu không hạ được hạm đội Mỹ tại Hawaii thì
cán cân sức mạnh dần dần sẽ nghiêng về phía Hoa Kỳ. Yamamoto cũng học
được bài học trong trận Trung Nhật chiến tranh đã kéo dài, dai dẳng bất
phân thắng bại, và gây hao tổn quá nhiều cho Nhật Bản. Chắc chắn Nhật
Bản không thể tham gia một cuộc chiến kéo dài như thế được nữa. Nhật
Bản cần phải ra tay bất thần và tạo được một chiến thắng thật mau lẹ ngoạn
mục, đánh một đòn chí tử khiến địch thủ không hy vọng quật khởi lại được.
Ðối với đa số các đô đốc Mỹ thì vị trí của căn cứ hải quân Trân châu cảng