hơn nữa và như thế thì tổn thất của Nhật sẽ lớn lao hơn nữa. Những tổn thất
mới sẽ làm lệch cán cân chiến thắng đã đạt được.
3. Các tin bắt được qua các tần số của Mỹ cho thấy Mỹ còn ít nhất 50 phi
cơ nữa còn hoạt động được. Ngoài ra Nhật không biết được các mẫu hạm,
tuần dương hạm và tiềm thủy đỉnh của Mỹ ở đâu.
4. Tiếp tục ở lại trong tầm hoạt động của không lực địch có căn cứ trên đất
liền là điều bất lợi cho Nhật, đặc biệt là tầm hoạt động của phi cơ Nhật chỉ
trong phạm vi 250 dặm, và Nhật phải tùy thuộc vào sự hoạt động của tiềm
thủy đỉnh tiền thám trong khu vực Hawaii.
Trong lúc đoàn mẫu hạm của Nagumo rời chiến trường với nhiệm vụ hoàn
thành thì các tiềm thủy đỉnh mẹ của Nhật vẫn còn ở lại để thu hồi các tiểu
tiềm thủy đỉnh. Trong sự hỗn loạn của cuộc oanh tạc, người ta không biết
được số phận của các tiểu tiềm thủy đỉnh. Người ta chỉ biết rằng tất cả năm
tiểu tiềm thủy đỉnh của Nhật không trở về được tiềm thủy đỉnh mẹ.
Ít nhất ba tiểu tiềm thủy đỉnh vào được Trân châu cảng nhưng hình như
không làm nên chuyện gì cả. Ðô đốc Shimizu, tư lệnh hạm đội tiềm thủy
đỉnh, ra lệnh cho các tiềm thủy đỉnh loại I tìm cách vớt những tiểu tiềm
thủy đỉnh. Ðầu tiên hai chiếc I-69 và I-68 chờ đợi tại cửa vào quân cảng.
Thiếu tá Watanabe chỉ huy chiếc I-69 tới nơi lúc 9 giờ tối, trồi lên mặt nước
và chứng kiến cảnh lửa cháy trên chiếc Arizona. Bầu trời Trân châu cảng
lúc ấy tắm trong một mầu đỏ của lửa. Trong lúc mải ngắm chiếc Arizona
cháy, chiếc I-69 bị ba khu trục hạm Mỹ trông thấy. Watanabe vội cho chiếc
I-69 lặn xuống tới 200 feet. Các khu trục hạm Mỹ phóng hỏa lực xuống tấn
công chiều sâu, nhưng hỏa lực của Mỹ chỉ công hiệu ở mức độ 100 feet
thôi và chiếc I-69 an toàn.
Chiếc I-68 cũng bị một khu trục hạm Mỹ bắt gặp. Khi chiếc I-68 lặn xuống
thì đụng phải màng lưới chống tiềm thủy đỉnh. Các thủy thủ Nhật vội tìm