Thêm vào đó là một số những lỗi kỹ thuật không được đính chính, nên có
thể làm sai lạc tinh thần nguyên tác. Chẳng hạn “âme” in lộn thành “âne”,
“esprit de lourdeur” in thành “esprit de douleur”, vân vân.
So sánh những cách dịch và những khuyết điểm trong từng bản dịch sẽ là
một công việc kéo dài, vượt quá khuôn khổ bài Chú thích này, vì nhân đó,
chúng tôi cũng phải đưa ra quan điểm dịch thuật của riêng mình. Nếu nhớ
rằng đa số trong sáu dịch giả dẫn thượng đều là những dịch giả tài ba
chuyên môn về Nietzsche, thì ta sẽ dễ dàng thông qua vấn đề văn từ để bước
thẳng tới vấn đề thứ hai có tính cách căn để hơn mà ta đã nêu ra: văn từ sử
dụng đưa dẫn tới nội dung tư tưởng nào?
Đối diện với câu hỏi này, ta sẽ lập tức thấy rằng tất cả mọi bản dịch đều là
bất toàn, bao lâu còn chưa trả lời được câu hỏi căn bản “Zarathustra là ai?”
Đặt vào một bầu khí triết học mới, ngôn ngữ dịch Zarathustra liền thay đổi
bình diện và người ta hầu như bắt buộc phải dịch trở lại Zarathustra một lần
nữa. Chẳng hạn, đặt vào trong kiến giải của Heidegger về Nietzsche, thì
một chữ đơn giản là Der Genesende (Kẻ bình phục, trang 441 bản Việt
ngữ) cũng đã đặt thành bao nhiêu vấn đề. Nếu dịch theo nghĩa thông
thường như các bản Anh và Pháp là “The Convalescent” hay “Le
Convalescent”, thì ta đã vô tình đánh rơi mất ý nghĩa triết học của
Zarathustra dưới khía cạnh là một “kẻ bình phục”. Theo sự phân tích của
Heidegger, der Genesende, cùng ngữ tộc với động từ genesen, do ngữ căn
Hy Lạp neomai, nostos, mà ý nghĩa là “quay trở về nơi cư trú”. Vậy, der
Genesende, là kẻ đang lên đường bình an quay trở lại quê hương, quy hồi
về với vận mệnh và tinh thể của mình. Đó là ý nghĩa Nietzsche muốn nêu
lên khi gọi Zarathustra là derGenesende. Bản Việt ngữ có thể dùng chữ “kẻ
bình phục” hay “kẻ hồi phục”, trong ý nghĩa thông thường là “kẻ vừa qua
cơn bệnh nặng” và ý nghĩa triết học là “kẻ đang phục hồi hay quy hồi về
với tinh thể của mình”. Ở đây, Việt ngữ đã có cơ hội may mắn song hành
với Đức ngữ mật thiết, hơn là các ngôn ngữ khác, để khai mở những ẩn ngữ