Tu thân chờ mệnh trời,
Muôn đá giữ thanh danh
Trong bài thơ dùng chữ "Tần" để ám chỉ triển nhà “Nguyên", vừa phân tích chính xác thời cuộc, lại
vừa bộc lộ tình cảm trong lòng mình.
Trong bài thơ họa với Trương Đức Bình, ông viết :
Giả Nghị tấu thư ai tự khóc,
Khuất Nguyên tâm sự khổ thùy luân.
Dịch :
Giả Nghị tâu vua buồn tự khóc,
Khuất Nguyên nỗi khổ nói cùng ai ?
Trong "Ba bài cảm hứng” ông viết :
Càn khôn xứ xứ tinh kỳ mãn,
Nhục thực hà nhân vấn thái di ?
Dịch :
Càn khôn cờ xí rợp trời,
Người ăn thịt cá đời nào hỏi (kẻ hái rau) vi.
Lưu Cơ cảm thán những cuộc khởi nghĩa sôi nổi của nông dân, tuy đã khuấy động cuộc sống yên
tĩnh của giai cấp địa chủ, nhưng đối với bọn quan liêu cao cấp, tâm hồn đã chai sạn, tham sống sợ
chết, vẫn nửa tỉnh nửa mê, không quan tâm chi cả. Đối với những chí sĩ thương nước thương dân như
Giả Nghị, Khuất Nguyên, thì triều đình lại không hiểu được tâm trạng của họ. Ông oán trách triều đình
không hỏi đến những người đi hái rau vi để sống, không dùng đến những người bụng đầy kinh luân như
ông, cũng như những người có tuyệt kỷ đang ẩn cư trong dân gian, trong những túp “chòi tranh” thô lậu.
Lưu Cơ nhục mạ những cuộc nông dân khởi nghĩa ở khắp địa phương là đạo tặc, là một lũ cướp, và
oán trách quân đội của triều đình trấn áp nông dân kỷ cương quá bại hoại, không ra hồn gì. Trong bài
"Ưu hoài", ông viết:
Quần đạo tung hoành bán Cửu Châu,
Can qua mãn mục kỷ thời hưu ?
Quan tào các hữu doanh sinh kế,
Tướng soái hà tằng vị quốc mưu ?
Mãnh hổ phong lang an tiến thực,
Nông phu điền phụ khổ chu cầu.
Ức cường phù nhược tu thiên thảo,
Khả quái vô nhân tá trợ trù