là hệ quả của các sự kiện ngoại lệ khác hầu như không liên quan đến bản
thân thỏa thuận đó. Khi có thể, chúng tôi đều sử dụng giá trị của các thỏa
thuận tại thời điểm công bố thay vì khi kết thúc. Nguồn dữ liệu của hàng loạt
các giao dịch này bao gồm: NCR: “Fatal Attraction (AT&T’s Failed Merger
with NCR),” The Economist, 23 March 1996; “NCR Spinoff Completes
AT&T Restructure Plan,” Bloomberg Business News, 1 January 1997.
McCaw and AT&T Wireless Sale: The Wall Street Journal, 21 September
1994. “AT&T Splits Off AT&T Wireless,” AT&T news release, 9 July
2001. AT&T, TCI, and MediaOn: “AT&T Plans Mailing to Sell TCI
Customers Phone, Web Services,” The Wall Street Journal, 10 March 1999;
“The AT&T-Mediaone Deal: What the FCC Missed,” Business Week, 19
June 2000; “AT&T Broadband to Merge with Comcast Corporation in $72
Billion Transaction,” AT&T news release, 19 December 2001; “Consumer
Groups Still Questioning Comcast-AT&T Cable Merger,” Associated Press
Newswires, 21 October 2002.
3. Giá cổ phiếu của Cabot vượt qua mức trung bình thị trường từ năm 1991
đến 1995 khi họ quay lại tập trung vào dự án kinh doanh cốt lõi của mình, vì
hai lý do. Ở một bên của phương trình, nhu cầu muội than ở châu Á và Bắc
Mỹ tăng lên vì doanh số bán ô tô nhảy vọt, từ đó tăng nhu cầu lốp xe. Về
phía cung, hai nhà sản xuất muội than khác của Mỹ vừa rời ngành vì không
muốn đáp ứng mức đầu tư cần thiết cho quản lý môi trường, do đó tăng sức
ép giá cả của Cabot. Cầu tăng và cung giảm dẫn đến lợi nhuận tăng vọt cho
các hoạt động sản xuất muội than truyền thống của Cabot, thể hiện ở giá cổ
phiếu của công ty. Tuy nhiên, từ 1996 đến 2000, giá cổ phiếu của họ lại
giảm xuống, phản ảnh sự thiếu triển vọng tăng trưởng.
4. Một nghiên cứu quan trọng về xu hướng thực hiện các đầu tư không thể
tạo được tăng trưởng của các công ty đã được Giáo sư Michael C. Jensen
thực hiện: “Cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại, lối thoát và thất bại của
các hệ thống quản lý nội bộ”, Journal of Finance (Tháng 7 năm 1993): 831-
880. Giáo sư Jensen cũng thực hiện nghiên cứu này để gửi lên Hiệp hội Tài
chính Mỹ. Thú vị là ở chỗ nhiều doanh nghiệp được Jensen dẫn chứng là đã
gặt hái tăng trưởng hiệu quả từ các khoản đầu tư của mình đều là các nhà cải
cách đột phá – một khái niệm then chốt trong cuốn sách này. Đơn vị phân
tích trong cuốn sách này, cũng như trong công trình của Jensen, là từng
doanh nghiệp chứ không phải hệ thống tạo tăng trưởng lớn hơn trong một
nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa. Các công trình như Theory of
Economic Development (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1934)
và Capitalism, Socialism, and Democracy (New York: London, Harper &
Brothers, 1942) của Joseph Schumpeter đều là các công trình bước ngoặc có
ảnh hưởng lớn, đề cập đến môi trường nơi các doanh nghiệp hoạt động. Ở
đây chúng tôi khẳng định rằng dù thành tích của các nền kinh tế thị trường tự
195