12 PHƯƠNG PHÁP KHÍCH LỆ NHÂN VIÊN TIỀN KHÔNG LÀM ĐƯỢC - Trang 217

tương đương với hiệu dụng biên tế mà họ nhận được từ việc sử dụng cải tiến.
Khi giá trị tăng của giá biên tế mà công ty có thể duy trì trên thị trường cho
một sản phẩm cải tiến tiến về 0 thì hiệu dụng biên tế mà khách hàng có được
từ việc sử dụng sản phẩm cũng sẽ tiến về 0.
2. Chúng tôi đã đề cập ở phần trước rằng không có công nghệ nào là bền
vững hay phá vỡ về bản chất. Đây là các giới hạn của một tập số thực
continum, và tính phá vỡ của một cải cách chỉ có thể được miêu tả tương đối
so với các mô hình kinh doanh, khách hàng và các công nghệ khác. Trường
hợp bóng bán dẫn cho thấy rằng thương mại hóa một số công nghệ như các
cải cách bền vững trong các thị trường lớn là rất tốn kém.
3. Hình 4-2 được vẽ nên từ dữ liệu do American Heart Association National
Center (Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ) cung
cấp. Vì các dữ liệu này chỉ đo lường các quy trình được thực hiện trong bệnh
viên nên các quy trình nong mạch thực hiện ở các phòng khám ngoại trú và
các địa điểm khác không phải bệnh viện đều không được kể đến. Điều này
có nghĩa là các con số nong mạch trong đồ thị thấp hơn so với thực tế, và
đánh giá không đúng mức này ngày càng trở nên đáng kể.
4. Có rất nhiều ví dụ khác ngoài những gì được liệt kê ở trên. Chẳng hạn
như, các nhà môi giới chứng khoán như Merrill Lynch tiếp tục tiến lên thị
trường cấp cao trong mạng lưới giá trị ban đầu của mình hướng tới các
khách hàng có giá trị ròng lớn hơn, từ đó thu nhập ròng và tổng doanh thu
của họ cũng được cải thiện. Họ chưa nhận thấy mối đe dọa mà cuối cùng họ
sẽ phải trải nghiệm khi các nhà môi giới chiết khấu trực tuyến tìm ra cách
cung cấp dịch vụ tốt hơn.
5. Xem Clark Gilbert and Joseph L. Bower, “Disruptive Change: When
Trying Harder Is Part of the Problem,” Harvard Business Review, May 2002,
94–101; và Clark Gilbert, “Can Competing Frames Co-exist? The Paradox
of Threatened Response,” working paper 02-056, Boston, Harvard Business
School, 2002.
6. Daniel Kahneman and Amos Tversky, “Choice, Values, and Frames,”
American Psychologist 39 (1984): 341–350. Kahneman và Tversky đã viết
về những điều rất lớn lao trong các ấn bản này. Phần tham khảo này chỉ là
một ví dụ trong công trình của họ.
7. Hiện tượng “threat rigidity” đã được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó
nổi bật là Jane Dutton và các đồng nghiệp của mình. Xem Jane E. Dutton
and Susan E. Jackson, “Categorizing Strategic Issues: Links to
Organizational Action,” Academy of Management Review 12 (1987): 76–
90; và Jane E. Dutton, “The Making of Organizational Opportunities—
AnInterpretive Pathway to Organizational Change”, Research in
Organizational Behavior 15 (1992): 195–226.
8. Arthur Stinchcombe đã viết rất nhiều về định đề rằng có được các điều

216

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.