thấp hơn cho người tiêu dùng, tuy nhiên, sự so sánh có ý nghĩa ở đây không
phải giữa chi phí của điện thoại di động ở châu Âu và ở Mỹ – những dịch vụ
này không cạnh tranh với nhau. Phép so sánh có nghĩa ở đây là so với điện
thoại cố định tại mỗi thị trường. Và ở đây, điều đáng lưu ý là dịch vụ điện
thoại cố định địa phương và đường dài ở châu Âu đắt hơn rất nhiều so với ở
Bắc Mỹ, và kết quả là, điện thoại không dây trở thành một sản phẩm thay thế
hấp dẫn hơn nhiều ở châu Âu so với ở Bắc Mỹ. Lợi ích được xem là ở phía
cầu của việc sử dụng xuyên quốc gia, theo hiểu biết của chúng tôi, vẫn chưa
được chứng minh qua việc sử dụng của người tiêu dùng châu Âu. Do đó,
chúng tôi muốn đưa ra một lý do khác để giải thích cho sự thành công của
điện thoại di động ở châu Âu, một nguyên nhân xác đáng hơn nhiều việc một
học sinh nữ ở Thụy Điển có thể sử dụng di động trong kỳ nghỉ ở Tây Ban
Nha, đó là sự cải thiện tương đối về chi phí và mức độ dễ dàng khi sử dụng
điện thoại di động so với điện thoại cố định. Thứ hai, và có lẽ còn quan trọng
hơn, quy định của châu Âu rằng “bên gọi trả tiền” đối với điện thoại di động
trong khi luật của Bắc Mỹ là “bên nghe trả tiền”. Nói theo cách khác, ở châu
Âu, nếu bạn gọi vào điện thoại di động của một người nào đó, bạn là người
trả tiền, còn người nhận thì không phải trả mức phí nào. Ở Bắc Mỹ, nếu một
ai đó gọi cho bạn vào di động của bạn, bạn sẽ phải trả tiền. Kết quả là, người
châu Âu thoải mái hơn nhiều trong việc cho người khác số di động, do đó tỷ
lệ sử dụng cũng tăng. Để biết thêm về chủ đề này, xem Strategis Group,
“Nghiên cứu bên gọi trả tiền”; ITU-BDT quy định cơ sở dữ liệu viễn thông”
và ITU Website: <http://www.itu.int/ITU-D/ict/statistics>. Kể đến tác động
của mỗi nhân tố trên (tiêu chuẩn GMS, giá thấp hơn điện thoại cố định và
bên gọi trả tiền), cũng như là các nhân tố chưa được dẫn ra khác không phải
là một công việc đơn giản. Nhưng chúng tôi muốn nói rằng tác động của tiêu
chuẩn duy nhất ít hơn rất nhiều so với những gì nó được công nhận và chắc
chắn không phải là yếu tố chính trong việc giải thích tỷ lệ thâm nhập của
điện thoại di động ở châu Âu cao hơn ở Bắc Mỹ.
1. Có hai cách nghĩ về một sản phẩm hay dịch vụ trong chuỗi giá trị. Chuỗi
giá trị này có thể được khái quát bằng thuật ngữ về các quá trình, có nghĩa là,
các bước giá trị gia tăng cần thiết để tạo ra hoặc chuyển giao nó. Ví dụ, các
quy trình thiết kế, lắp ráp, tiếp thị, bán hàng và phân phối là các quy trình
chung trong một chuỗi giá trị. Một chuỗi giá trị cũng có thể được hiểu theo
thành phần, hoặc “hóa đơn nguyên liệu” đầu vào của một sản phẩm. Ví dụ,
khối động cơ, khung gầm, hệ thống phanh và đoạn lắp ráp nhỏ điện tử để cấu
thành một chiếc xe hơi là các thành phần của chuỗi giá trị xe. Giữ cả hai ý
kiến về một chuỗi giá trị trong tâm trí là điều rất hữu ích, vì chuỗi giá trị
cũng “lặp lại” – có nghĩa là chúng đều có mức độ phức tạp như nhau ở mọi
cấp độ phân tích. Cụ thể là khi một sản phẩm đi qua quá trình xác định chuỗi
giá trị, rất nhiều thành phần khác nhau được sử dụng. Nhưng tất cả các thành
223