thành phần đáng quan tâm là “xác định hiệu suất” của các thành phần hoặc
hệ thống con. Ví dụ trong trường hợp của một máy tính cá nhân, bộ vi xử lý,
hệ thống điều hành và các ứng dụng từ lâu đã trở thành hệ thống con xác
định hiệu suất.
7. Các nhà phân tích ước tính bao nhiêu tiền sẽ ở lại với ngành công nghiệp
máy tính và bao nhiêu sẽ bị “rò rỉ” qua quá trình lắp ráp sản phẩm cuối cùng
hoặc hệ thống cung cấp phụ tóm tắt trong 'Deconstructing the Computer
Industry,” Business Week, 23 November 1992, 90-96. Như đã lưu ý trong
phụ lục của chương này, chúng tôi hy vọng rằng phần lớn lợi nhuận của Dell
đến trực tiếp từ hoạt động bán lẻ cho khách hàng chứ không phải từ hoạt
động lắp ráp sản phẩm.
8. Với sự phản ánh chỉ trong một vài giây, có thể dễ dàng thấy rằng ngành
công nghiệp quản lý đầu tư phải chịu các vấn đề của phân loại theo ngành
công nghiệp không liên quan đến lợi nhuận và tăng trưởng. Do đó, họ tạo ra
một quỹ đầu tư cho “công ty công nghệ” và các quỹ khác cho “công ty chăm
sóc sức khỏe”. Trong những danh mục đầu tư này là những công ty lắp ráp
đang trên bờ vực của hàng hóa phổ biến. Michael Mauboussin, chiến lược
gia đầu tư chính tại Credit Suisse First Boston, gần đây đã viết một bài viết
về chủ đề này. Nó được xây dựng dựa trên mô hình lý thuyết mà chúng tôi
đã tóm tắt trong phần giới thiệu của cuốn sách này, và ứng dụng của nó trong
thế giới của đầu tư là rất sâu sắc. Xem Michael Mauboussin, The Consiliant
Observer, New York: Credit Suisse First Boston, 14 January 2003.
9. Những độc giả đã quen thuộc với ngành công nghiệp ổ đĩa cứng có thể
thấy sự mâu thuẫn giữa tuyên bố của chúng tôi rằng có rất nhiều lợi nhuận
được thu về trong ngành sản xuất ổ đĩa với sự thật là những nhà sản xuất
hàng đầu như Read-Rite và Komag đã không đạt thành công. Họ đã đạt được
sự thịnh vượng bởi hầu hết các nhà sản xuất ổ đĩa cứng hàng đầu, đặc biệt là
Seagate, đã tích hợp sản phẩm ổ đĩa cứng để tự kiếm lời thay vì những nhà
cung cấp độc lập.
10. IBM đạt nhiều lợi nhuận ở các ổ đĩa cứng 3,5-inch, nhưng đó là ở cấp
năng suất cao nhất của thị trường, nơi mà năng lực không đủ tốt và thiết kế
sản phẩm phải tương thuộc.
11. Một báo cáo đầy đủ hơn về những phát triển đã được xuất bản trong
Clayton M. Christensen, Matt Verlinden và George Westerman, “Disruption,
Disintegration and the Dissipation of Differentiability,” Industrial and
Corporate Change 11, no. 5 (2002): 955–993. Nghiên cứu đầu tiên của
trường Kinh doanh Harvard đã tóm tắt những phân tích này và được lưu
hành rộng rãi vào năm 1998 và 1999.
12. Chúng tôi đã cố ý sử dụng động từ ở thì hiện tại thường và thì tương lai
tại đoạn này. Lý do là vào thời điểm bản báo cáo này lần đầu tiên được viết
và chuyển tới nhà xuất bản, các lời tuyên bố chỉ là dự đoán. Sau đó, tổng lợi
225