có ý nghĩa đặc biệt với cộng đồng ấy, cần có người luôn để ý chăm nom để
nó không bị tổn thương. Không thể rời mắt dù chỉ một giây. Mọi người đã
dặn dò cô như thế. Nhưng cô đã bất cẩn lơ là, trong lúc đó con dê núi đã
chết. Vì chuyện này mà cô bị trừng phạt. Bị nhốt trong nhà kho cũ cùng với
con dê núi đã chết. trong mười ngày ấy, cô bé bị cách li hoàn toàn, không
được phép bước ra ngoài. Cũng không được nói chuyện với bất kì ai.
Dê núi có sứ mệnh làm cầu nối giữa Người Tí Hon với thế giới này. Cô
không biết Người Tí Hon là người xấu hay người tốt (Tengo đương nhiên
cũng không biết). Khi màn đêm buông xuống, Người Tí Hon sẽ đến thế
giới này qua xác con dê núi. Khi trời sáng, họ lại trở về thế giới bên kia. Cô
bé có thể trò chuyện với Người Tí Hon, họ dạy cho cô cách chế tạo Nhộng
không khí.
Điều khiến Tengo khâm phục là cả tập tính và hoạt động của con dê núi
mù đều được miêu tả hết sức cụ thể, chi tiết. Chính những chi tiết ấy đã
khiến tác phẩm sống động lạ thường. Cô thực sự đã chăm sóc một con dê
núi mù ư? Và có thật là cô đã từng sống trong một cộng đồng công xã ở
trong vùng núi sâu giống như tác phẩm mô tả? Tengo đoán có lẽ đúng là cô
từng có những trải nghiệm ấy. Nếu hoàn toàn không có một chút trải
nghiệm nào như vậy thì Fukaeri chắc chắn là một thiên tài kể chuyện hiếm
có trên đời.
Lần tới gặp Fukaeri (chắc chắn sẽ là Chủ nhật), mình sẽ hỏi cô ấy về
chuyện dê núi và công xã, Tengo nghĩ. Anh không biết Fukaeri có trả lời
những câu hỏi kiểu này hay không. Nhớ lại cuộc nói chuyện lần trước, có
vẻ cô chỉ trả lời những vấn đề mà cô thấy mình có thể trả lời. Những câu
hỏi không muốn trả lời hoặc chưa chuẩn bị để trả lời, cô đều lờ đi, coi như
không nghe thấy. Giống hệt như Komatsu. Về phương diện này thì hai
người rất giống nhau. Tengo thì không như vậy, chỉ cần người khác đặt câu
hỏi, cho dù đó là vấn đề nào chăng nữa, anh đều cố gắng trả lời chu đáo.
Cái đó có lẽ là do trời sinh.
Năm giờ rưỡi, người tình lớn tuổi của anh gọi điện đến.
“Hôm nay làm những gì rồi?” cô ta hỏi.