người ở nước phát triển (30% so với 12,8%). Tỷ lệ chênh lệch này là mười
lần nếu chúng ta so sánh Bangladesh với Mỹ (7,5% so với 75,4%). Và trong
trường hợp cực đoan nhất, cơ hội cho một người nào đó ở Benin trở thành
một doanh nhân cao hơn mười ba lần so với cơ hội dành cho người Na Uy
(88,7%, so với 6,7%).
Hơn nữa, ngay cả những người đang điều hành các doanh nghiệp ở các
nước giàu không cần phải có tinh thần doanh nhân như các đối tác của họ ở
các nước nghèo. Đối với các doanh nhân ở các nước đang phát triển, luôn
có sự cố xảy ra. Có những đợt cắt điện làm đảo lộn lịch trình sản xuất. Hải
quan không thông quan cho các phụ tùng thay thế cần thiết để sửa một
chiếc máy, việc mà đã bị trì hoãn từ lâu do các vấn đề về giấy phép mua đô
la Mỹ. Nguyên liệu đầu vào không được giao đúng hẹn vì các xe tải giao
hàng bị hỏng do các ổ gà trên đường. Và các quan chức nhỏ ở địa phương
luôn bẻ cong, và thậm chí còn tự đặt ra, những quy định để ăn hối lộ. Đối
phó với tất cả những trở ngại này đòi hỏi tư duy nhanh nhẹn và khả năng
ứng biến. Một doanh nhân Mỹ bình thường sẽ không thể trụ vững được quá
một tuần khi phải đối mặt với những vấn đề này, nếu ông ta đã được chỉ
định quản lý một công ty nhỏ ở Maputo hoặc Phnom Penh.
Vì vậy, chúng ta đang phải đối mặt với một câu hỏi rõ ràng. Các nước đang
phát triển có nhiều người (xét về tỷ lệ) tham gia vào các hoạt động kinh
doanh hơn rất nhiều so với các nước giàu. Không những thế, các kỹ năng
kinh doanh của họ bị kiểm tra thường xuyên và khắt khe hơn so với những
đối thủ của họ ở các nước giàu. Vậy thì tại sao các nước có tinh thần doanh
nhân hơn lại là những nước nghèo hơn?
Những kỳ vọng lớn hơn - tài chính vi mô tham gia
vào thị trường
Năng lực kinh doanh dường vô bờ của người nghèo ở các nước nghèo, tất
nhiên, đã được chú ý. Có một quan điểm ngày càng có tầm ảnh hưởng rằng
công cụ phát triển của các nước nghèo là cái được gọi là “khu vực phi chính