họ không còn phụ thuộc vào các khoản trợ cấp từ chính phủ và các tổ chức
viện trợ nước ngoài để duy trì cuộc sống của mình nữa. Đặc biệt, phụ nữ
nghèo được tín dụng vi mô trao quyền vì nó mang lại cho họ khả năng kiếm
được một khoản thu nhập và do đó nâng cao vị thế của họ so với nam giới
trong gia đình. Không phải trợ cấp cho người nghèo, chính phủ cảm thấy
nguồn ngân sách của mình chịu ít áp lực hơn. Của cải được tạo ra trong quá
trình này đương nhiên làm cho toàn bộ nền kinh tế, chứ không chỉ riêng các
doanh nhân khu vực phi chính thức, giàu có hơn. Với tất cả những điều này
thì không có gì đáng ngạc nhiên khi Giáo sư Yunus tin rằng với sự giúp đỡ
của tài chính vi mô, chúng ta có thể tạo ra một thế giới không đói nghèo -
[nơi mà] địa điểm duy nhất bạn có thể nhìn thấy nghèo đói là viện bảo tàng.
Giữa những năm 2000, sự phổ biến của tài chính vi mô được đẩy lên rất
cao. Năm 2005 là năm được Liên Hiệp Quốc chỉ định là Năm Tín dụng vi
mô quốc tế, với sự tham gia của Hoàng gia, như Nữ hoàng Rania của
Jordan, và các nhân vật nổi tiếng như nữ diễn viên Natalie Portman và
Aishwarya Rai. Uy thế của tài chính vi mô đạt đỉnh điểm vào năm 2006, khi
giải Nobel Hòa bình đã được trao chung cho Giáo sư Yunus và Ngân hàng
Grameen của ông.
Ảo tưởng lớn
Thật không may, luận điệu khoa trương về tài chính vi mô chỉ là sự cường
điệu. Có những lời chỉ trích ngày càng gia tăng về tài chính vi mô, thậm chí
bởi chính một số người ban đầu ủng hộ nó. Ví dụ, trong một nghiên cứu gần
đây cùng với David Roodman, Jonathan Morduch, một người ủng hộ tài
chính vi mô trong một thời gian dài, đã thú nhận rằng “đáng chú ý là 30
năm tham gia vào hoạt động tài chính vi mô, chúng ta có rất ít bằng chứng
vững chắc rằng nó cải thiện cuộc sống của khách hàng theo những cách có
thể đo lường được”.
Có quá nhiều vấn đề để liệt kê hết ra đây; những
độc giả quan tâm có thể đọc cuốn sách hấp dẫn gần đây của Milford
Bateman, Tại sao Tài chính Vi mô Không hiệu quả (Why Doesn’t