Cam phận em ruột thắt từng hổi.
Vận bất tề nên phải nổi trôi.
Thời bất đạt nên con xa xứ.
Tôi hỏi:
- Bài về ai đặt ra. Cảm động quá. Ai lại không từng sống trong cảnh cô
độc, xa nhà vì sinh kế.
Ông tư đáp:
- Của tác giả vô danh, phần đầu tả tình, phần sau tả cảnh tiếp theo như
vầy:
Xứ lạ lùng con có một mình.
Cơn nguy hiểm lấy ai phò trợ.
Bởi thiếu thốn bao nhiêu đồng nợ,
Nay thân con phải chịu hoành hành.
.............
Việc ăn ở nhiều nỗi đắng cay,
Vái trời phật xin về quê cũ.
Xứ hiểm địa chim kêu vượn hú,
Dế ngâms ầu nhiều nỗi đa đoan.
Ngó dưới sông con cá mập lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm như trăm khúc.
Tôi cật vấn ông:
- Nhớ hơi quá. Không lẽ núi Tà Lơn âm u nguy hiểm như vậy.
Ông Tư cười:
- Có tích mới đặt tuồng. Còn nữa...
Nay con tới nguồn cay nước đục,
Loại thú cầm trông thấy chỉnh ghê,
Giống chằng tinh lai vãng dựa xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách.
Bầy chồn cáo đua nhau lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi nối gót,
Cặp giả nhân kêu tiếng rảnh vang.