nến của chúng tôi đã bị phá hủy, Adama đề nghị một cuộc đi dạo thân mật
vào một buổi tối mùa thu.
Ánh trăng phản chiếu xuống dòng sông lấp lánh. “Mọi thứ trôi qua
nhanh quá”, thiên thần nói,
“Anh có nghĩ là em được không?”
“Trong phim đấy à?”
“Vâng. Em trông có buồn cười không?” “Không đâu.”
Tôi muốn nói “em đẹp lắm” nhưng cổ họng khô rang và tôi không thốt ra
được lời nào cả. Cạnh con đường dọc bờ sông là một công viên nhỏ, có bập
bênh và xích đu. Hai chúng tôi ngồi bên nhau trên ghế xích đu. Tiếng kêu
ken két của nó nghe ra còn hấp dẫn hơn tiếng guitar solo của Jimi Hendrix.
“Anh luôn gợi em nhớ đến một người nào đó.” Thiên thần nói, “Hôm
nay em đã biết đó là ai.”
“Ai thế?”
“Chūya Nakahara
.”
Đầu óc tôi cứ bấn loạn cả lên và lúc đầu tôi không biết đó là ai cả. Tôi
không hề nhớ bất cứ nam diễn viên nào có tên như thế. Nhưng chưa ai bảo
tôi giống diễn viên điện ảnh cả. Và tôi chợt nhớ ra: Chūya Nakahara là một
nhà thơ, tài hoa đoản mệnh.
“Jane này…” Tim tôi tưởng như sắp vỡ tung ra, nhưng cuối cùng tôi
quyết định nói, “Em đã từng hôn bao giờ chưa?”
Nàng cười. Tôi thấy mắc cỡ quá, đỏ hết cả mặt mũi chân tay. Sau một lúc
im lặng, nàng nhìn vào mắt tôi và lắc đầu.
“Lạ lắm phải không anh?” Nàng nói, “Có phải mọi người đều làm thế
à?”
“Anh chẳng biết nữa.” Đó là một câu trả lời ngu xuẩn, nhưng đó là câu
hay nhất mà tôi có thể nghĩ ra.
“Thật buồn cười, em thích những bài tình ca của Dylan và Donovan,
nhưng em chưa từng hôn ai cả.” Cả hai đứa tôi đều thôi đung đưa xích đu,
thiên thần nhắm mắt lại. Tim tôi đập thình thịch như muốn nói cố lên, cố