“cuộc sống chung”. So với những năm trước, tôi được nghe thường
xuyên hơn hắn nói về những quyết định và bộc bạch về những
vấn đề của hắn. Việc tôi là tù nhân của hắn và hắn giám sát
nhất cử nhất động của tôi dường như không ảnh hưởng gì đến
hắn trong việc khát khao một thế giới lý tưởng. Giá như tôi thuộc
về hắn hoàn toàn một ngày kia - nếu như hắn biết chắc chắn
đằng nào tôi cũng sẽ không bỏ trốn - thì cả hai chúng tôi có thể
sống tươi đẹp hơn, hắn luôn nói với tôi bằng ánh mắt sáng ngời.
Hắn chỉ có những ý niệm lờ mờ về hình thù của cuộc sống tươi
đẹp hơn này. Nhưng vai trò của hắn khi ấy đã được ấn định rõ
ràng: trong mọi hình dung, hắn đều thấy chính mình là người
thống trị trong ngôi nhà; hắn đã dành cho tôi nhiều vai trò. Có lúc
là người nội trợ và lao động khổ sai làm tất cả công việc trong nhà
cho hắn, từ xây cất cho đến nấu nướng và lau dọn, thùng rác cho
những cơn lệch lạc tâm lý của hắn, bao cát để hắn trút giận vì sự
bất lực với cuộc đời thật. Điều không bao giờ thay đổi là ý tưởng
rằng hắn có toàn quyền đối với tôi một cách hoàn toàn và trọn
vẹn. Kịch bản “cuộc sống chung” của hắn không bao giờ có tôi với
tính cách của riêng tôi, nhu cầu của riêng tôi và thậm chí một chút tự
do.
Phản ứng của tôi đối với giấc mơ của hắn bỗng bị giằng xé.
Một mặt, đối với tôi, chuyện đó dường như hết sức bất bình
thường. Chẳng ai có đầu óc sáng suốt lại hình dung ra một cuộc
sống chung với kẻ mà mình đã bắt cóc, đánh đập suốt nhiều năm
và giam cầm. Nhưng, cũng trong lúc đó, cái thế giới xa xôi, hấp
dẫn mà hắn vẽ ra bắt đầu bám rễ trong tiềm thức của tôi. Tôi có
một nỗi khát khao quyết liệt được sống cuộc đời bình thường. Tôi
muốn gặp mọi người, muốn ra khỏi nhà, đi mua sắm, bơi lội.