chuyện đào thoát cũng là một ý niệm rất xa vời. Ban đầu tôi đã hy
vọng một lúc nào đó hắn sẽ bỏ tôi một mình. Nhưng không có lúc
nào cả. Tôi luôn bị giám sát thường trực. Thật đáng nể với những nỗ
lực của hắn trong việc ngăn ngừa tôi trốn thoát. Mỗi khi phải đi ra
hành lang để vào nhà vệ sinh, hắn đẩy những miếng ván và xà gỗ
nặng ra chặn trước cửa sổ để tôi không thể mở nhanh và la hét. Khi
biết phải đi ra ngoài lâu hơn năm phút, hắn vặn vít cả những
miếng ván ấy. Thậm chí ở đây hắn cũng dựng lên một nhà tù cho
tôi. Khi chìa khóa vặn trong ổ, tôi được đưa về trở lại trong căn hầm
của mình. Nỗi sợ một điều gì đó xảy đến với hắn và tôi sẽ chết
trong căn hộ đó cũng xiết lấy tôi đến nghẹt thở. Tôi thở dài nhẹ
nhõm mỗi khi hắn quay trở lại.
Hôm nay nỗi sợ ấy dường như lạ lẫm với tôi. Dù gì tôi cũng đang
ở
trong một tòa nhà các căn hộ và có thể la hét hoặc nện vào tường.
Khác với trong căn hầm, ở đây người ta có thể nhanh chóng tìm ra
tôi. Tôi không có lý do gì chính đáng phải sợ cả. Nỗi sợ trỗi dậy từ sâu
bên trong tôi, từ trong hầm ngục trong chính tôi.
Một hôm, một người đàn ông lạ đột nhiên xuất hiện trong căn hộ.
Hắn và tôi vừa lôi mớ tấm trải sàn lên lầu một. Cánh cửa chỉ
đang khép hờ thì một người đàn ông lớn tuổi có mái tóc muối tiêu
bước vào và lớn tiếng chào cả hai. Tiếng Đức của ông ta tệ đến nỗi
tôi chật vật mới hiểu được. Ông ta chào hỏi người mới đến và rõ ràng
muốn chuyện gẫu theo kiểu láng giềng về thời tiết và công việc tu
bổ căn hộ. Priklopil đẩy tôi ra sau lưng và muốn đuổi khéo ông ta
bằng cách trả lời cụt ngủn. Tôi cảm nhận được nỗi sợ hãi dâng lên
trong hắn và để cho nó lan sang cả tôi. Mặc dù người đàn ông đó có
thể là cứu tinh của tôi, tôi cảm thấy như thể bị quấy rầy bởi sự hiện