còn hơn cả nỗi sợ của chính mình. Tôi bỏ hàng giờ đồng hồ để suy
nghĩ xem làm sao ít ra truyền tin để bố mẹ biết rằng tôi vẫn còn
sống. Để bố mẹ không hoàn toàn tuyệt vọng. Và để bố mẹ không
buông xuôi việc tìm kiếm tôi.
Trong thời gian đầu ở trong hầm, tôi hy vọng cửa sẽ mở và ai đó
sẽ cứu tôi. Niềm hy vọng rằng không một ai có thể làm cho tôi
biến mất dễ dàng như thế đã giúp tôi trụ được trong suốt những
giờ đồng hồ bất tận trong hầm. Nhưng ngày lại ngày trôi qua,
chẳng ai đến cả. Ngoại trừ hắn.
Ngẫm lại, dường như hắn đã hoạch định vụ bắt cóc này từ lâu:
nếu không thì tại sao hắn lại mất nhiều năm để xây một căn
hầm chỉ có thể mở cửa từ bên ngoài và chỉ đủ rộng để một người ở
được trong đó? Nhưng hắn, như tôi chứng kiến suốt những năm bị
cầm tù, là một người hoang tưởng, đầy sợ hãi, tin rằng thế giới
này độc ác và con người đang truy đuổi hắn. Cũng có thể đúng là
hắn xây căn hầm như một công sự để chuẩn bị cho chiến tranh hạt
nhân hoặc Thế chiến thứ ba, để làm nơi trốn tránh tất cả những
ai mà hắn nghĩ đang truy lùng hắn.
Giờ đây chẳng có ai nói cho chúng ta biết câu trả lời nào là đúng.
Ngay cả những lời khai của đồng nghiệp cũ Ernst Holzapfel của hắn
cũng cho thấy cả hai cách diễn giải. Trong một lời khai với cảnh sát,
ông ta cho biết hắn đã từng có lần nhờ ông ta làm cách âm cho
một căn phòng để ngay cả tiếng búa máy cũng không thể lọt ra bất
kỳ nơi đâu trong nhà.
Ít ra, đối với tôi, hắn đã không hành xử như một kẻ đã từng
chuẩn bị nhiều năm để bắt cóc một đứa bé và toại nguyện với ước
ao ấp ủ lâu năm của mình. Hoàn toàn ngược lại: hắn tỏ ra như