thương xót của mình cũng đủ. Không ai đành tâm ngồi nhìn một kẻ chết
đuối chìm dần.
Tôi kêu lên: “Tôi phải làm!”. Hiện tôi chưa biết tôi phải làm cách nào,
nhưng tôi nhất định làm. Ngay ngày hôm nay, tôi viết thư cho hắn. Đoạn tôi
còn nói kháy nàng một câu: “Chắc gì hắn đã thích”.
Nàng nói. “Anh khỏi lo. Một cọng rơm nó cũng bám”.
Thế là tôi viết rõ sự thể cho hắn biết. Tôi còn vẽ sơ đồ hình nhà cửa, cho
biết kích thước phòng hắn, rằng phòng không lò sưởi, rằng chúng tôi ở xa
thành thị. Tôi nói: “Không chừng ở đây anh sẽ buồn lắm, ngoài chúng tôi ra
không còn ai để trò chuyện, không thư viện, không quán cà phê, và nhà xi-
nê gần nhất cũng hàng sáu bảy chục cây số. Nhưng ít ra anh không còn lo
ăn lo ở”. Kết luận, tôi còn nói sang đây anh là chủ anh, muốn làm gì tùy
thích, thật vậy, muốn nằm khàn suốt ngày cũng chẳng sao.
Hắn trả lời liền, bảo tôi rằng hắn mừng quá sức, gọi tôi là ông thánh, là cứu
tinh, vân vân và vân vân.
Mấy tháng kế đó, tôi lo đào tiền, vay ai được là vay, có ít tiền dắt lưng cũng
bỏ ra, mượn trước tiền bản quyền, sau hết lo giấy tờ cho hắn từ Thụy Sĩ bay
qua Anh lên tàu Queen Mary hoặc Elizabeth, gặp chiếc nào đi chiếc đó,
sang Nữu Ước, rồi từ Nữu Ước bay đến San Francisco, đến đây có tôi chờ
sẵn.
Trong mấy tháng vay mượn ngược xuôi và nhặt nhạnh từng đồng tôi vẫn
phải lo cho hắn sống đầy đủ hơn. Lo cho hắn béo tốt ra không lẽ ôm lấy
một kẻ chết dở. Còn một điều tôi không giải quyết được thỏa mãn, là trả số
tiền trọ còn thiếu. Trong hoàn cảnh này, tôi không thể làm gì hơn là viết
một bức thư nhờ hắn đưa cho bà chủ nhà xem, trong đó tôi hứa sẽ thanh
toán mọi khoản sớm ngày nào hay ngày nấy. Tôi xin lấy danh dự hứa với
bà ta.
Ngay trước hôm đi, hắn gởi cho tôi một lá thư chót, cho tôi biết rằng về
việc bà chủ nhà, mọi sự cũng đã yên. Hắn viết để cho bà an tâm, hắn đã
phải miễn cưỡng tặng bà một bài thơ. Dĩ nhiên hắn dùng chữ văn hoa hơn
thế. Nhưng hắn nói rõ ràng, dù làm thế là tởm, hắn cũng đã làm tròn phận
sự.