không phải con người ta sinh ra đã là người hiền lành hay kẻ độc ác, mà trong
cuộc sống này chỉ tồn tại muôn vàn những ngã ba của thiện và ác mà thôi.
Ngay cả khi mùa hè đến, vẻ hoang tàn của ngọn núi Inwang cũng chẳng có
gì thay đổi. Con suối phải đợi đến lúc mùa mưa nước mới chảy đôi chút. Con
đường lên điện thờ chỉ toàn dốc đá dựng thẳng đứng, bên phải còn vương lại
chút rừng cây bụi rậm, đến lúc trời nhập nhoạng, bất chợt vẳng nghe có tiếng
kêu liều mạng của ai đó đang định bắt chó. Đám thanh niên cứ nghe thấy tiếng
kêu ấy là mắt lại sáng lên, ngay lập tức tụ tập nhau lại thành đám, xông vào
rừng, trên tay cũng cầm sẵn những cành cây dùng làm gậy bắt chó. Trên đầu
những cành cây đó treo sợi dây thừng và ở đó luôn phảng phất mùi hôi của thịt
chó cháy. Bởi thế mà khu rừng vốn đã rất hoang vu lại càng thêm đáng sợ và
bốc lên mùi tanh tưởi.
Trời trở nên nóng nực, và chẳng biết có phải một người nghiêm chỉnh như
anh tôi đã không thể kiên nhẫn ở trong phòng hay không, mà cứ ăn tối xong,
lại dắt tay tôi đi hóng gió mãi tận Seonbawi. Đó là lúc tôi cảm thấy thích nhất.
Không tự hào sao được khi chỉ có anh tôi là người nổi bật nhất trong số những
người ra hóng gió ở đó.
Để khoe với người khác về sự gắn bó giữa hai anh em, tôi chạy ra tận xa xa,
bứt lấy cỏ gà rồi ngồi xuống ngay bên cạnh anh tôi và bắt đầu tết. Mỗi lần bứt
cỏ gà, như thói quen vốn có, tôi lại tìm thứ cỏ ăn được. Nhưng ở vùng đất cằn
cỗi xung quanh ngọn núi Seonbawi này, chỉ có những loài cỏ thô ráp, cứng
ngắc, mọc lên. Chốc chốc, tôi lại ngừng tay, ngẩn người, ngơ ngác: “Ai đã ăn
hết những cây sing-a mọc đầy ở quê tôi?”. Người anh ít nói của tôi dường như
cũng hiểu được nỗi niềm mong nhớ quê hương của tôi, nên mỗi lần như vậy,
lại đưa tay ra đếm, báo cho tôi biết chỉ còn mấy ngày nữa là nghỉ hè rồi.
Kỳ nghỉ hè đang tới rất gần, chỉ còn khoảng năm đầu ngón tay, lúc ấy, mẹ
đưa tôi đi chợ đêm. Từ đoạn Yeongcheon
đến ngã tư Seodaemun
đêm lại có họp chợ. Ở đó, họ bán từ con dao, cái bô, cái chổi... đến cả các đồ
tạp hóa dùng một lần, nhưng chủ yếu là các quầy bán vải la liệt. Ba bề quầy
hàng được quây lại bằng những tấm vải rủ xuống như những tấm rèm, còn
những người bán hàng thì vô cùng khéo miệng, tiếng rao của họ hết sức mời
gọi. Những thước vải dưới ánh đèn điện, tấm nào cũng như tấm nào, tất cả đều