nôn bởi hắn nợ người phụ nữ này mọi thứ, bà từng là thầy của hắn, cố vấn
của hắn, ân nhân của hắn kiêm người bảo trợ cho hắn. Nhưng không cần
mất công tìm kiếm tình người ở những kẻ như Lewis. Chẳng nên chờ đợi
điều gì to tát ở một gã mở phanh áo sơ mi đến tận rốn để thiên hạ chiêm
ngưỡng thỏa thích đám lông ngực kiểu đười ươi của mình. Nhưng hắn có
tắm không nhỉ? Khó nói lắm: lúc nào hắn cũng khiến tôi kinh tởm, và từ
khi hắn bắt đầu thích chinh chiến và rêu rao điều ấy qua báo chí, người ta
được xem những hình ảnh về hắn ngày càng cáu ghét và râu ria lởm chởm,
ghét đóng trên cái cổ áo sơ mi viền quanh túm lông như lông khỉ của hắn.
Quân du kích béo dần, từ tạp chí này sang tạp chí khác. Đi chiến trận thì
người ta có béo ra được không nhỉ?
“Tôi biết cái tôi nhìn thấy chứ, tôi nhắc lại, mắt tôi rất tinh”, hồi ấy thì
sự thật đúng là vậy. O'Connor đang quỳ gối, đầu rúc vào giữa hai đùi chồng
tôi. Căn phòng chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng, nhưng ánh sáng của
máy chiếu đủ soi sáng cảnh tượng đó và tôi có thể đảm bảo với ông đó rằng
đó đúng là điều họ đang làm.
“Chưa từng có máy chiếu, thưa bà. Chồng bà đã đảm bảo với chúng
tôi điều đó. Ông nhà khăng khăng như vậy. Ông bà chưa bao giờ có máy
chiếu.
- Chúng tôi đang ở khách sạn, đó là chiếc máy chiếu mượn của khách
sạn, chiếc máy chiếu hướng về một bức tường trong phòng và... họ đang
xem bộ phim con heo nhân vật gồm hai đàn ông và một phụ nữ, và hai
người đàn ông ấy không thèm ỏ ê đến người phụ nữ, nếu ông hiểu điều tôi
muốn nói.”
Hai người họ đều lắc lắc khuôn mặt đang đeo kính, những gương mặt
xanh xao hốc hác trắng bệch như áo blouse họ đang mặc trên người: “Lại là
một ảo giác nữa, Zelda. Không phải đôi mắt đánh lừa bà, mà là trí óc bà.
Đó là đặc điểm căn bệnh của bà: bà không nên tin vào những gì mình nhìn
thấy.”