lãng mạn”, một cái nhan đề khó đọc và khó nhớ, ngay cả khi nó rất chuẩn
xác cho anh, cho chúng tôi, tuổi đôi mươi của chúng tôi. Tất nhiên là anh
không nghe những lời tôi nhận xét: chỉ có những lời khen ngợi đắm đuối
của Winston và Bishop, hai ông bạn chí cốt học cùng trường Princeton với
anh, là đáng kể. Họ cũng muốn viết văn. Tất cả những gã trai này, họ mắc
chứng gì mà khăng khăng muốn trở thành văn sĩ? Họ mãn nguyện biết mấy
khi trở nên giàu có và nổi tiếng!
Có thể hiểu là “Dì”, “Cô”, “Bác"...
Ngày mai, nếu không nhận được lá thư nào - dù có văn vẻ hay không
-, hay một bức điện báo nói rõ “Tôi cưới em” và định ra ngày giờ cụ thể, tôi
sẽ hủy hôn ước. Sự vắng mặt của anh và hàng loạt thư từ lời lẽ bức này trái
ngược bức kia đã chiến thắng lòng kiên nhẫn của tôi.
“Cưng của anh, anh nghĩ đến em, em biết đấy.
Và anh làm việc như một thằng khùng để em có thể hãnh diện về anh,
để rốt cuộc em cũng thèm muốn anh. Ban ngày, anh viết hàng loạt mẩu
quảng cáo dở ẹc, lấy làm sung sướng nếu một trong những khẩu hiệu ngu
xuẩn ấy được chấp nhận; đêm đến, anh viết tiếp cuốn tiểu thuyết của anh,
và anh còn gửi truyện ngắn cho các báo nữa. Cưng ơi, trong vòng sáu tháng
qua anh nhận được nhiều thư từ chối tới mức nếu đính lên tường của căn
phòng anh đang ở chúng sẽ che kín được khắp ba mặt tường nhà. Không,
anh chẳng quá lời đâu, và anh cũng không nhấp một giọt rượu, để giữ đúng
lời đã hứa với em. Thế đấy, thư từ chối gửi về có tới hàng trăm lá. Nhưng
em biết không, anh vẫn ấp ủ hy vọng. Anh sẽ chỉ lên tàu quay về
Montgomery chừng nào sách anh viết được xuất bản, hành trang của anh sẽ
có bằng chứng của tội ác đã được in ra, để dành tặng em. Anh mong rằng
lúc bấy giờ em sẽ nhìn anh trong một tư thế tốt đẹp hơn, và mong em sẽ
nhận ra anh cần có em biết bao.
Fitz của em.”