muốn sống tại đó, một mình, đạm bạc và thanh thản. Ít ra tôi cũng không
buộc phải ăn ba bữa một ngày. Tôi đã béo ra, đã biến dạng đến mức không
còn soi mình trong gương nữa: cùng lúc các nét của tôi phị ra, cằm tôi nặng
thêm, mắt tôi hõm sâu, ăn sâu vào hốc mắt. Tôi béo ra vì không luyện tập,
vì lạm dụng thuốc an thần, và tôi ghét chuyện này. Họ đã giáng cho tôi đòn
chí tử với cú sốc bọc đường của họ.
Tôi tin chắc rằng mình chưa bao giờ cảm thấy thảm hại như trong đợt
điều trị bằng insulin này... người ta đã cho tôi ngốn những thứ có bột, người
ta nhồi nhét cho tôi đầy đường, qua đường miệng và qua đường truyền... rồi
cái thứ insulin này dìm tôi trong cơn hôn mê. Họ đã làm như vậy nhiều lần
đến nỗi tôi không chắc đã lấy lại được nhận thức trong suốt ba tháng cơn
sốc bọc đường ấy dai dẳng, quãng thời gian đó tôi đã tăng hai mươi ki lô.
(Chúa ơi..., mẹ kiếp, nếu điều gì đó tồn tại đáng kể hơn đầu óc tôi, một
cấp xét xử cao hơn - chà! có mà nó sẽ cứu tôi khỏi những đòn tra tấn nhân
từ này!)
Patti bảo rằng tôi có mập ra cũng chẳng hề gì vì trước đây tôi quá gầy.
Chẳng hề gì! Tôi cảm thấy bản thân đánh mất hết cả khả năng, không chỉ
về thể chất mà còn về trí tuệ. Tôi bị giam cầm đằng sau hai lớp độn: một
của những bức tường nhà thương điên, và một của lớp mỡ trên người.
Từ cửa sổ phòng mình, tôi nhìn thấy những chiếc máy bay gắn ống
phun bay vút về phía những cánh đồng, chúng tưới cánh đồng bằng một làn
bụi nước màu vàng hoặc xanh lơ tùy theo loại sản phẩm giết chóc. Tôi
buồn biết mấy. Tại sao Scott muốn canh giữ tôi, tại sao anh lại nhốt tôi lại
để canh giữ tôi, liệu có phải là để đợi đến lúc tôi suy sút và héo hon rồi mới
thả tôi ra? Lẽ ra tôi đã có được Joz. Lẽ ra tôi đã sinh cho chàng hai đứa con,
thằng con trai này, Montgomery, và một đứa con gái, Alabama, lẽ ra chúng
tôi đã xây một căn nhà kiên cố trên bờ biển, và lẽ ra tôi đã vẽ, lẽ ra tôi đã ở
đó, trong vòng tay vững chãi của chàng, chốn thích hợp nhất trần đời để vẽ.
Tôi có thể tin vào chàng.