một cái, tôi đã bổ nhào từ đất lên trời và ngươi đàn bà đã hoảng hốt, chạy
trốn.
Trong sân quán trọ của mađam Hortense, con gà trống già lên tiếng gáy.
Ánh ngày trắng trong rọi vào qua khung cửa sổ. Tôi vùng dậy ra khỏi
giường.
Thợ thuyền đã bắt đầu đến, vai vác cuốc bàn, cuốc chim, xà beng. Tôi
nghe thấy tiếng Zorba ra lệnh. Lão đã lao thẳng vào công việc. Người ta
cảm thấy lão là một người biết cách chỉ huy và thích gánh vác. Tôi thò đầu
ra ngoài ô cửa sổ bán nguyệt và trông thấy lão đang như một gã hộ pháp
hậu đậu giữa hơn ba mươi người gày gò nhỏ con, thô kệch và dầu dãi
phong sương. Tay lão dang ra hống hách, lời lẽ lão ngắn gọn và chính xác.
Có lúc lão túm gáy một gã thanh niên vì gã trù trừ và lầu bầu trong miệng.
- Muốn nói gì, hả? Zorba quát. Thế thì hãy nói to lên! Ta không ưa cái
thói lầm bầm. Bọn bay đã làm việc thì phải hào hứng. Bằng không thì cút
về quán rượu cho rồi.
Giữa lúc đó, mađam Hortense xuất hiện, đầu tóc bù rối, má xệ ra. Mụ
chưa trang điểm và mặc một chiếc áo thụng bẩn và chân xỏ một đôi dép lê
vẹt gót. Mụ ho khàn khàn kiểu ho của những ả ca sĩ già, như tiếng lừa kêu.
Mụ dừng lại và hãnh diện nhìn Zorba, mắt trở nên mơ màng.
Mụ lại ho để đánh tiếng cho lão để ý đến mình và qua sát bên lão, đung
đưa và đánh mông. Ống tay áo rộng của mụ gần chạm vào lão, nhưng thậm
chí lão không buồn quay lại nhìn. Lão lấy một mẩu bánh lúa và một nắm ô-
liu từ tay một người thợ và nói to:
- Nào, các bạn, nhân danh Chúa, hãy làm dấu thánh giá!
Và sải bước, lão dẫn đầu đoàn người thành một hàng dọc hướng về phía
núi.